(Tài liệu tham khảo)
Ở miền Nam sông Dương Tử, hồ Động Đình họp thành bởi nhiều hồ lớn. Mỗi năm vào mùa lũ nước sông Dương Tử chảy vào hồ, làm tăng diện tích hồ từ 2.800 km² đến 20.000 km². Quân Sơn, một đảo nằm giữa hồ có 72 đỉnh núi, rộng 1 km nổi tiếng với các loại trà thơm, hoa lá quý hiếm tươi tốt quanh năm. Cảnh đẹp thần tiên, nhiều truyện tích rất u linh chích quái, liêu trai chí dị. Từ hàng ngàn năm, nhắc đến Tiêu Tương Hồ Nam, là nhắc đến tiên cảnh Động Đình Hồ, đến “Bát cảnh Tiêu Tương” của vùng Giang Nam.
Từ miền Hoa Bắc sa mạc, người thuộc chủng Hoa Hạ ào ào lưng ngựa triền miên chinh phục hết miền đất này đến miền đất khác. Người Hoa Bắc nổi tiếng với nhiều lý thuyết gia, nhưng văn chương rất khô khan. Trái lại, miền Nam sông Dương Tử, nhất là miệt Động Đình sông nước mây khói mơ màng, nổi tiếng nhất với hai con sông Tiêu và Tương chảy vào lòng hồ, đã là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ văn, hội hoạ, âm nhạc…
“Ai có về bên bến sông Tương/ Nhắn người duyên dáng tôi thương/ Bao ngày ôm mối tơ vương…” của nhạc sĩ Thông Đạt, hay Kiều của Nguyễn Du, “Sông Tương một giải nông sờ/ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia” cũng là sông Tương này. Chữ Tương, tiếng Hẹ (Hakka) phát âm là “siong”, tiếng Quảng Đông là “seong”, tiếng quan thoại là “xiāng”. Trong Chinh phụ ngâm, những vần thơ hết sức đẹp, cũng lấy cảnh sông nước Hồ Động Đình:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng…
Hồ Động Đình trong truyền thuyết Hồng Bàng
Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
“Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục.
Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải….”
Nước Sở có từ bao giờ?
Khi truyền thuyết xuất hiện trong Lĩnh Nam chích quái thế kỷ 14, tất cả những địa danh, nhân danh từ Đế Minh, Lộc Tục, Xích Quỷ… đến Hồ Tôn, Hồ Bắc, Hồ Nam, Động Đình Hồ… là tên thuần Hán. Tất cả nằm tại địa bàn nước Sở, tức khu vực Động Đình Hồ.
Vương đầu tiên của người Việt là Kinh Dương Vương, có thể hiểu đó là “vương của châu Kinh và châu Dương”?
Đất Kinh, mang tên loại cỏ Kinh mọc thành bụi cao, đa số dân thuộc chi Âu, đại diện là Âu Cơ, đọc theo phát âm Mường và Quảng Đông là Ngu Kơ, ưa sống miền núi rừng. Bây giờ, địa bàn của châu Kinh là tỉnh Hồ Bắc.
Đất Dương có dân thuộc chi Lạc, đại diện là Lạc Long Quân, ưa sống miền biển. Địa bàn châu Dương gồm các tỉnh ven biển: Giang Tây, An Huy, Chiết Giang, và Giang Tô.
Cả hai đại chi Âu và Lạc, thuộc chủng Yueh/Việt. Mỗi đại chi lại có hàng trăm tiểu chi. Khoa nhân chủng học ngày nay gọi nhóm này là Austro-Asiatic = người châu Á phương Nam, khác với Mongoloid, người châu Á phương Bắc, chính là chủng Hoa Hạ.
Theo chính sử Trung Hoa, Châu Thành Vương (1042-1021 TCN) phong cho Hùng Dịch tước tử ở nước Sở, còn gọi là nước Kinh, để cai trị và ngăn chặn quấy phá của dân “man di” Yueh/Việt ở địa phương. Đây là lần đầu tiên người Trung Hoa thiết lập chế độ phong kiến (phong đất cho thuộc hạ, họ hàng). Đây cũng là lần đầu tiên người Hoa Bắc chính thức chinh phục miền đất phía Nam sông Dương Tử.
Trong 800 năm, từ đầu thế kỷ 11 TCN đến khi bị Tần Thuỷ Hoàng diệt năm 223 TCN, nhà họ Hùng đưa nước Sở từ một miền phên dậu thành một chư hầu hùng mạnh có lúc lấn cả thiên tử nhà Châu, và suýt trở thành “thủ lãnh đại ca” của Xuân Thu Ngũ Bá.
Năm 740-689 TCN, khoảng đầu thời Xuân Thu, nhà Châu bắt đầu suy, nước Sở cường thịnh dù vẫn bị người Hoa Hạ chế diễu “Vua Sở như con khỉ biết đội mũ”. Lãnh tụ của Sở là Hùng Thông tự ý xưng Vương, tức Sở Vũ Vương. Từ đó trở đi, tiếp theo hàng chục đời, lãnh tụ nước Sở bao giờ cũng có họ Hùng và tước Vương. Hùng Dịch, Hùng Thông, Hùng Sì, Hùng Cừ… chữ Hùng 雄 viết y hệt như trong “Hùng Vương” của Việt Nam.
Sau khi diệt các nước Việt nho nhỏ chung quanh, năm 333 TCN nước Sở thôn tính thêm hai nước Việt rất lớn cũng thuộc chi Lạc ở ven biển: nước Ngô Việt (Câu Tiễn) và U Việt (Phù Sai). Tuy rất văn minh, đã đúc thuyền đồng, trống đồng, luyện thép (như hai nhà luyện kiếm nổi tiếng là Mạc Tà và Can Tương), nhưng chỉ lo đánh đấm và trả thù nhau nên bị Sở diệt.
“Quốc tịch” dân Sở
Đại thần/thuộc hạ của Châu Thành Vương đều là người chủng Hoa Hạ. Hai người Sở nổi tiếng, thi sĩ Khuất Nguyên, tác giả Ly Tao, và Hạng Võ, mà người Việt giới bình dân đều rành nhờ… tuồng cải lương Hồ Quảng Hạng Võ biệt Ngu Cơ – “Tấm thân lấp biển vá trời/ Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang”. Tây Sở Bá Vương Hạng Võ người chủng Hoa Hạ, Ngu Cơ chủng Việt, chi Âu.
Không riêng gì Sở, dân “man di” miệt Nam Dương Tử đa số là Yueh/Việt. Nên khi hai nước Trịnh, nước Vệ có chiến tranh, quân dân hai bên leo lên mặt thành nói chuyện thả dàn, không cần thông dịch viên toà án. Sử không thèm ghi xem bọn dân đen nói chuyện chi. Mời nhau ăn một miếng trầu, rủ rê xuống ruộng dâu [1] , đánh trống đồng hay hát bài “Việt nhân ca” [2] .
Chi tiết trên chứng tỏ đánh nhau là chuyện của lãnh chúa Hoa Hạ, còn dân Việt tỉnh bơ ví dầu nói chuyện trời trăng. Điều này rất quan trọng nhưng độc giả lướt qua vù vù như cưỡi máy bay, yên chí mình đang đọc truyện về dân Tàu. In hệt hồi Tần Thuỷ Hoàng sai Triệu Đà, người Hoa thứ thiệt, đi “bình định” vùng Lĩnh Nam. Khi nhà Tần yếu, Triệu Đà xưng làm vua Nam Việt, nhưng dân vẫn cứ là giống Việt “man di”.
Tiếng nước Sở ngày nay đã bị Hoa hóa nhưng giọng nói của dân Hồ Bắc, Hồ Nam vẫn còn giữ thổ âm của tiếng Sở ngày xưa. Người Hoa gọi đó là giọng Hồ Quảng (nơi phát xuất… cải lương Hồ Quảng). Hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây gọi là tỉnh Việt. Tiếng Quảng Đông còn gọi là Việt ngữ. Kịch nghệ ở Quảng Đông và Hương Cảng gọi là Việt kịch. Thức ăn của Quảng Đông là Việt thái (tsai). Xin để ý: dân tộc Việt Nam là một thành phần trong khối Yueh/Việt. Nhưng không bao iờ là toàn khối chủng Yueh/Việt cả. Vì vậy những thành tích/khám phá có dính líu đến “người Việt” về phương diện nhân chủng/khảo cổ/văn hoá/… đào bới được ở khắp vùng châu Á không luôn luôn có nghĩa thuộc về người Việt Nam ở Việt Nam. Ngay cả nền văn hoá Hoà Bình thuộc thời đồ đá mới tuy tìm thấy ở tỉnh Hoà Bình, nhưng giới khoa học rất thận trọng, họ không coi nền văn hoá này là của người Việt Nam vì thời đó chưa có nước Việt Nam và người Việt Nam. Ai à chủ nhân thực sự của văn hóa Hoà Bình, vẫn là một câu hỏi.
Chiến tranh
Sử Tà không ghi chép đời sống của dân bản địa. Bộ Đông Châu liệt quốc toàn tả lãnh tụ xưng hùng xưng bá. Chỉ biết từ đời Xuân Thu Chiến Quốc 722 TCN đến khi Sở bị Tần diệt năm 223TCN là một thời kỳ hỗn loạn. Dân ở phía Nam sông Dương Tử chịu cảnh binh đao, tàn sát, cướp bóc… hông biết bao nhiêu mà kể. Chính biến, đảo chánh, giành ngôi, phế lập, âm mưu, cướp bóc, lãnh chúa… iên giới các “nước” thay đổi. Có nước bị giải thể. Hàng ngàn nước bị chia cắt, sát nhập lúc vào nước này, lúc vào nước kia.
Khi Tần Thuỷ Hoàng, “gồm thâu lục quốc” (Hàn, Nguỵ, Sở, Triệu, Tề, Yên) một cuộc chiến khủng khiếp kéo dài 9 năm biến giải đất mênh mông từ trung nguyên [3] xuống nam Dương tử thành một lò sát sinh khổng lồ.
Gia đình lãnh chúa bị tận diệt đã đành, dân chúng lớp bị giết hàng khối, lớp chạy tan tác trước sức đồng hoá của chủng Hoa Hạ, của chiến tranh, hạn hán, mất mùa... Miền đất chưa bị vó ngựa chủng Hoa rớ tới, chính là vùng mênh mông phía Nam và Tây nước Sở. Bây giờ là vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Quế Châu, đồng bằng sông Hồng… Lúc đó chưa miền nào có tên như bây giờ. Muốn đi tới miền này phải vượt qua dãy Đại Ngũ Lĩnh hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, hoàn toàn không hợp với người Hoa Hạ chỉ quen chinh chiến và sống vùng sa mạc. Trong Đường về Trùng Khánh, dù đã là năm 1942, tác giả Hàn Tố Âm (Han Suyin) vẫn tả Quế Châu như một vùng rừng núi hoang vu gần như không có ai tới, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, chỉ có một số người miền núi sinh sống. Thật ra trong quá khứ ngàn năm trước, miền này đã đón nhận hoặc là miền chuyển tiếp rất nhiều đợt chạy loạn.
Bộ mặt của lịch sử Trung Hoa, không phải chỉ ngon lành nào Hồng lâu mộng, nào Tây du ký, tứ đại giai nhân, thi thánh thi bá… Bộ Đông Châu liệt quốc ghi lại 400 năm loạn lạc, cho thấy mạng dân đen (Hoa cũng như Việt) như bèo: Tề Hiếu Công chôn sống hơn hai trăm nội thị và cung nhân trong mồ của cha mình. Mồ của Tần Mục Công táng theo 177 người. Ngô vương Hạp Lư đánh bẫy hơn một vạn nam nữ để tuẫn táng cho con gái. Không hiếm những người tỉnh táo, lệnh doãn Tôn Thúc Ngao di chúc “Dân nước Sở ta khổ vì việc chiến tranh đã lâu, chúa công nên nghĩ lại mà khiến cho dân được an nghỉ”. Nếu chúa công nghe lời can gián, nước Sở chắc không bị Tần diệt, và bộ mặt địa lý/chính trị của nước Trung Hoa có thể đã khác.
Chiến tranh/nạn đói thời An Lộc Sơn cũng được ghi lại trong 1.500 bài thơ của Đỗ Phủ, nổi tiếng thi hào mà không cần chạy theo chéo áo giai nhân [4] . An Lộc Sơn đánh vào Trường An, Đường Huyền Tông chạy trốn, Dương Quí Phi thắt cổ. Trong 8 năm, dân số nhà Đường, kiểm kê năm 754 từ 52.8 triệu người chỉ còn 16.9 triệu.
Lăng mộ của Tần Thuỷ Hoàng cần tới 70 ngàn người xây cất, con số chôn sống không rõ. Nhà văn Hàn Tố Âm, dù gia đình khá giả ở Bắc Kinh (cha người Bỉ, mẹ người Hoa) cũng nhắc lại điều khủng khiếp ám ảnh bất cứ đứa trẻ Trung Hoa nào: chiến tranh và thiên tai “ba năm liền không có một giọt mưa”. Dân chết đủ kiểu. Kể cả chết đói. Vỏ cây cũng không còn. Ai còn đi được, đều cố đứng dậy hay lết bằng đầu gối.
Dân Sở thuộc chủng gì?
Dù Kinh Dương Vương là một người thật, hay chỉ là một biểu tượng trong truyền thuyết Hồng Bàng, cũng đều là một pha trộn hai giòng máu Âu và Lạc. [5] Đây là mật mã cốt lõi của truyền thuyết:
· Hai chi Âu-Lạc sống chung ở vùng Động Đình Hồ,
· Cùng dắt díu nhau di tản, và đoạn cuối
· Buồn hơn bất cứ chuyện tình nào: Âu-Lạc phân ly. Thế kỷ 14, tác giả Lĩnh Nam chích quái ghi tất cả biến cố bi tráng trên vào mươi hàng đặt tên “Truyền thuyết Hồng Bàng”. Thời bây giờ, không chắc có cây bút nào có thể viết ngắn/nhiều ý nghĩa đến vậy.
Độc giả có thể kiểm chứng bằng nghiên cứu hay đọc những nghiên cứu ngôn ngữ và lịch sử, thì thấy từng chi tiết của truyền thuyết vẫn còn in dấu trên tình trạng đa sắc tộc và sự hoà huyết, hỗn hợp ngôn ngữ của cư dân có mặt trên mảnh đất Việt Nam. Lịch sử dựng nước của các quốc gia châu Á: Đài Loan, Phi Luật Tân, Nhật, Triều Tiên, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam,… đều có những điểm giông giống nhau: hỗn loạn, chia cắt, đánh chiếm, tận diệt, lấn đất, di cư, hoà huyết…
“Nước” Xích Quỷ biến đi đâu?
Không biến đi đâu hết. Ở đâu còn nguyên đó. Đất cũ người cũ. Thêm người mới khoác áo văn hoá mới. Nhìn trên bản đồ, bờ cõi nước Xích Quỷ hầu như phân nửa bờ phía Nam sông Dương Tử: Bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 cây số vuông. Diện tích Việt Nam bây giờ là 331,688 cây số vuông.
Tại sao thình lình không gian của Lạc Long Quân tức Hùng Vương thứ nhất rộng lớn đến thế, đời Hùng Vương thứ 18 khi bị Thục Phán diệt, chỉ còn lại đồng bằng sông Hồng?
Di cư
Như trên đã nói, một cuộc di tản rất lớn xảy ra, kéo dài hàng mấy trăm năm, trước/sau khi nước Sở bị diệt vong. Đám chi Âu, chi Lạc chạy khỏi địa bàn nước Sở. Khi đi, mang theo tất cả những truyền thuyết tổ tiên đến địa bàn mới. Ngay như tên người Việt bây giờ vẫn tự gọi: người Kinh - để phân biệt với người Thượng - có thể tên châu Kinh đất cũ còn trong ký ức.
Có lẽ nên hiểu truyền thuyết Hồng Bàng là cổ sử của chủng Yueh/Việt, hơn là cổ sử riêng của Việt Nam. Biên cương rộng lớn của Xích Quỷ hé mở đôi điều, nếu hiểu theo quan sát và quan niệm của tác giả truyền thuyết Hồng Bàng về thời lưu cư ở Động Đình Hồ:
1. Chủng Việt, khác với chủng Hoa Hạ
2. Hễ đồng chủng, là cùng một “nước”
3. Có rất nhiều bộ tộc Việt sống xen kẽ trên cùng địa bàn Xích Quỷ
4. Vì xen kẽ, nên mượn qua mượn lại truyền thuyết/cổ tích của nhau
5. Người/tiếng Việt đi tới đâu, biên giới Xích Quỷ đi đến đó
6. Người Trung Hoa bây giờ cũng là một pha trộn = Hoa Hạ + Việt, cả DNA và tiếng nói.
7. Lãnh tụ đầu tiên Lạc Long Quân hoàn toàn thuộc chủng Việt, mang hai giòng máu Âu và Lạc, không lai một chút Hoa Hạ nào hết.
Có “nước” Xích Quỷ không?
Không. Bởi vì:
· Xích Quỷ: chỉ là địa bàn lớn chứa chủng Việt, gồm hàng trăm (hay ngàn) bộ lạc/thị tộc, tình trạng “văn minh” tuỳ vùng.
· Nước Sở: nhỏ hơn, chứa các nhóm Âu-Lạc.
· Đồng bằng sông Hồng: nhỏ hơn nữa, là một trong những nơi dừng chân cuối cùng của dân Âu/Lạc di tản. Nơi đó cũng đã có người ở từ trước.
Nước Thái Lan, nước Lào, chi Âu, tình cảnh rất giống Việt Nam. Thái chỉ mới thành lập quốc gia từ thế kỷ 13. Lào lập nước trễ hơn Thái chừng nửa thế kỷ. Cả hai chạy ngược chạy xuôi tìm đất và choảng nhau với dân bản địa. Có những bộ tộc rất oai hùng, nhưng lại không thành lập nổi một quốc gia, ví dụ sắc tộc Karen, sắc tộc H’Mong, và hàng ngàn bộ tộc hiện diện trên đất Trung Hoa, bị Hán hoá hoặc có danh nghĩa “khu tự trị”, nhưng mức độ độc lập luôn là câu hỏi.
“Con Rồng cháu Tiên”
Xin thú thật, là một học trò yêu môn lịch sử, nghe “con rồng cháu tiên, dân Việt mình… siêu hơn dân tộc khác” rất êm tai. Nhưng hôm nay ôn lại những trang sử, bàng hoàng nhận ra một bài học khác: nước Việt sinh ra trong ly loạn, những đoàn người đầu tiên đã cố gắng phi thường mới hội được nước Việt như ngày nay.
Cảm xúc trước sự huyền bí của lịch sử là một cảm xúc đẹp. Tuy vậy, kiểu hãnh diện mơ màng “con Rồng cháu Tiên” nhưng không biết rằng nước Việt được tạo dựng trong điêu linh, có thể làm biến dạng suy tư của người Việt: làm đứt đoạn, xa rời hẳn với quá khứ. Nếu có đôi điều đặc biệt đáng hãnh diện, đó là trong số hậu duệ của chủng Việt, không có quốc gia nào nắm níu tên “Việt” ngoại trừ dân tộc Việt Nam; và sau gần 3000 năm thăng trầm, sức sống bền bỉ, chấp nhận hoà huyết, sáng tạo tiếng nói, dũng mãnh chống ngoại xâm, mềm dẻo giữ độc lập… mỗi ngày là mỗi cố gắng gượng dậy từ những tang thương dù không hề biết cuối con đường cay đắng hay vinh quang: đó mới là kho báu đích thực và bài học vô cùng quí giá tổ tiên để lại.
Phật Đản 2007, California
© 2007 talawas
[1]Câu 507, Kiều trả lời Kim Trọng khi chàng Kim eo sèo đòi “sex”:
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,Thì con người ấy ai cầu làm chi!
Sông Bộc: nơi trai gái chủng Việt chiều chiều rủ nhau xuống bãi dâu tình tự nên có thành ngữ “Trên Bộc trong dâu”, Nguyễn Du tiên sinh viết theo quan niệm nhà Nho hồi đó, tức cấm đoán nhiều thứ lủng củng.
[2]Nhiều thông tin khác nhau về bài “Việt nhân ca”:
- Dân ca của người Choang
- Bài hát của dân Việt thời Ngô Việt giao tranh. Vương tử Sở là Ngạc Quân Tử Tích thích bài hát nên nhờ chuyển thành Sở từ. Cũng là bài hát trong phim Dạ yến/The Banquet với Chương Tử Di.
[3]Miền đất giữa Hoàng Hà và Dương Tử.
[4]Đỗ Phủ: tất cả thơ của ông tả cảnh chiến tranh thời An Lộc sơn. Ví dụ: Bài “Vô gia biệt” (Cuộc ly biệt của kẻ không nhà), ông ước "Có ngôi nhà lớn muôn gian để che chở cho kẻ nghèo khắp thiên hạ. Bao giờ nhà lớn sừng sững hiện ra, riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được". Ông bôn ba khắp nơi dâng kế cứu dân cứu nước. Không ngờ về đến nhà mới hay con trai đã chết đói.
[5]Nguyên Nguyên, “Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương”.
Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2014
Dương Tử Giang - Sông Dương Tử
Khói trầm bên giấc mơ tiên
Bâng khuâng... trăng rải qua miền quạnh hiu
Tô Châu lớp lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử, mây chiều Giang Nam
(Hồ Dzếnh)
Trường Giang hay sông Dương Tử (Hán-Việt: Dương Tử Giang) là con sông dài nhất châu Á và đứng thứ ba trên thế giới sau sông Nin ở Châu Phi, sông Amazon ở Nam Mỹ.
Trường Giang dài khoảng 6.385 km, bắt nguồn từ phía tây Trung Quốc (Thanh Hải) và chảy về phía đông đổ ra Biển Hoa Đông, Trung Quốc. Thông thường sông này được coi như điểm phân chia giữa hai miền Hoa Bắc và Hoa Nam Trung Quốc, mặc dù sông Hoài cũng đôi khi được coi như vậy.
Cùng với Hoàng Hà, Trường Giang là sông quan trọng nhất trong lịch sử, văn hóa, và kinh tế của Trung Quốc. Đồng bằng châu thổ Trường Giang màu mỡ tạo ra 20% GDP của Trung Quốc. Trường Giang chảy qua nhiều hệ sinh thái đa dạng và bản thân nó cũng là nơi sinh sống cho nhiều loài đặc hữu và loài nguy cấp như Cá sấu Trung Quốc và Cá tầm Dương Tử. Qua hàng ngàn năm, người dân đã sử dụng con sông để lấy nước, tưới tiêu, ngọt hóa, vận tải, công nghiệp, ranh giới và chiến tranh. Đập Tam Hiệp trên Trường Giang là công trình thủy điện lớn nhất thế giới.
Trong những năm gần đây, con sông phải chịu đựng những chất ô nhiễm từ công nghiệp, nông nghiệp, và mất nhiều vùng đất ngập nước và hồ, làm gia tăng yếu tố lũ theo mùa. Một số đoạn sông hiện đang được bảo vệ làm các khu bảo tồn thiên nhiên. Một đoạn sông Trường Giang chảy qua các hẻm núi sâu, hẹp ở phía đông Vân Nam được công nhận là một phần của khu bảo tồn Sông Vân Nam, một di sản thế giới của UNESCO.
Bâng khuâng... trăng rải qua miền quạnh hiu
Tô Châu lớp lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử, mây chiều Giang Nam
(Hồ Dzếnh)
Trường Giang hay sông Dương Tử (Hán-Việt: Dương Tử Giang) là con sông dài nhất châu Á và đứng thứ ba trên thế giới sau sông Nin ở Châu Phi, sông Amazon ở Nam Mỹ.
Trường Giang dài khoảng 6.385 km, bắt nguồn từ phía tây Trung Quốc (Thanh Hải) và chảy về phía đông đổ ra Biển Hoa Đông, Trung Quốc. Thông thường sông này được coi như điểm phân chia giữa hai miền Hoa Bắc và Hoa Nam Trung Quốc, mặc dù sông Hoài cũng đôi khi được coi như vậy.
Cùng với Hoàng Hà, Trường Giang là sông quan trọng nhất trong lịch sử, văn hóa, và kinh tế của Trung Quốc. Đồng bằng châu thổ Trường Giang màu mỡ tạo ra 20% GDP của Trung Quốc. Trường Giang chảy qua nhiều hệ sinh thái đa dạng và bản thân nó cũng là nơi sinh sống cho nhiều loài đặc hữu và loài nguy cấp như Cá sấu Trung Quốc và Cá tầm Dương Tử. Qua hàng ngàn năm, người dân đã sử dụng con sông để lấy nước, tưới tiêu, ngọt hóa, vận tải, công nghiệp, ranh giới và chiến tranh. Đập Tam Hiệp trên Trường Giang là công trình thủy điện lớn nhất thế giới.
Trong những năm gần đây, con sông phải chịu đựng những chất ô nhiễm từ công nghiệp, nông nghiệp, và mất nhiều vùng đất ngập nước và hồ, làm gia tăng yếu tố lũ theo mùa. Một số đoạn sông hiện đang được bảo vệ làm các khu bảo tồn thiên nhiên. Một đoạn sông Trường Giang chảy qua các hẻm núi sâu, hẹp ở phía đông Vân Nam được công nhận là một phần của khu bảo tồn Sông Vân Nam, một di sản thế giới của UNESCO.
Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014
Phỏng vấn Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về chiến tranh Việt Nam
Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khóa võ bị đầu tiên của Quân đội Quốc gia do Pháp đào tạo, sau đó tốt nghiệp và trở thành một sĩ quan phục vụ cho Quân đội Liên hiệp Pháp. Về sau Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ tiếp tục đào tạo và tin dùng. Sau vụ đảo chính năm 1963 lật đổ Chính phủ Ngô Đình Diệm, ông tham chính làm Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia Việt Nam Cộng hòa từ năm 1965 đến năm 1967 và trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa từ năm 1967 đến năm 1975.
Sau sự kiện năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu bỏ chạy ra nước ngoài và cuối cùng định cư ở Mỹ cho đến khi qua đời.
* Google Drive: https://drive.google.com/file/d/1ZVwq6bSeSC8gmtE6YHYDE2O94GU4eja2/view
* YouTube: https://www.youtube.com/watch?v=c_36BXxpEjw&t=1248s
Sau sự kiện năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu bỏ chạy ra nước ngoài và cuối cùng định cư ở Mỹ cho đến khi qua đời.
* Google Drive: https://drive.google.com/file/d/1ZVwq6bSeSC8gmtE6YHYDE2O94GU4eja2/view
* YouTube: https://www.youtube.com/watch?v=c_36BXxpEjw&t=1248s
Thứ Hai, 5 tháng 5, 2014
Nâng cấp RAM cho thiết bị Android với ROEHSOFT RAM Expander | Download Full License - Invalid key
Có rất nhiều phần mềm tạo tệp tin swap (RAM ảo) miễn phí trên Google Play nhưng nhược điểm của chúng là chỉ tạo tệp tin swap trực tiếp lên trên bộ nhớ trong của máy hoặc bị hạn chế bởi swap size (kích thước tệp tin dùng làm RAM ảo). Ví dụ: Phần mềm Swapper 2 chỉ cài được swap size tối đa là 256MB.
Ưu điểm của ROEHSOFT RAM Expander ghi được tệp tin swap lên thẻ nhớ và không hạn chế swap size (tùy dung lượng thẻ nhớ của bạn). Chính vì vậy ROEHSOFT RAM Expander SWAP 2.99 ra đời với mức giá gần 200k (trên CH Play), còn nếu bạn tải theo đường link bên dưới thì hoàn toàn miễn phí và không bị check invalid key.
Đường dẫn tải xuống (Tệp .rar và tệp .apk):
1. Tệp tin .rar: http://www.mediafire.com/download/y8256z73leca73w/ROEHSOFT_RAM_Expander_SWAP_2.99.rar
Tệp có đuôi .rar, tải về giải nén ra thành tệp có đuôi .apk rồi sao chép vào thẻ nhớ trong smartphone của bạn để cài đặt (Hướng dẫn chi tiết theo link cuối bài viết).
2. Tệp tin .apk: http://www.mediafire.com/download/p226965wmajulhq/ROEHSOFT_RAM_Expander_SWAP_2.99.apk
Hướng dẫn sử dụng chi tiết: http://vuonit.com/thu-thuat/204-huong-dan-nang-cap-ram-cho-cac-thiet-bi-android
Ưu điểm của ROEHSOFT RAM Expander ghi được tệp tin swap lên thẻ nhớ và không hạn chế swap size (tùy dung lượng thẻ nhớ của bạn). Chính vì vậy ROEHSOFT RAM Expander SWAP 2.99 ra đời với mức giá gần 200k (trên CH Play), còn nếu bạn tải theo đường link bên dưới thì hoàn toàn miễn phí và không bị check invalid key.
Đường dẫn tải xuống (Tệp .rar và tệp .apk):
1. Tệp tin .rar: http://www.mediafire.com/download/y8256z73leca73w/ROEHSOFT_RAM_Expander_SWAP_2.99.rar
Tệp có đuôi .rar, tải về giải nén ra thành tệp có đuôi .apk rồi sao chép vào thẻ nhớ trong smartphone của bạn để cài đặt (Hướng dẫn chi tiết theo link cuối bài viết).
2. Tệp tin .apk: http://www.mediafire.com/download/p226965wmajulhq/ROEHSOFT_RAM_Expander_SWAP_2.99.apk
Hướng dẫn sử dụng chi tiết: http://vuonit.com/thu-thuat/204-huong-dan-nang-cap-ram-cho-cac-thiet-bi-android
Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014
Ngâm thơ - Tuyển chọn đặc sắc
Tuyển chọn các bài thơ qua những giọng ngâm hay nhất như: Núi Đôi, Quê Hương, Ngày xưa hoàng thị, Màu tím hoa sim, Ru - Bảo Cường, Xin đừng - Quỳnh Hương, Ngâm ngùi và Hai sắc hoa Ti-gôn - Hoàng Oanh, Núi đôi - Thúy Mùi, Dư âm - Bảo Cường,...
- Núi Đôi/ Vũ Cao - Thúy Mùi, Khắc Tư
- Quê hương/ Giang Nam - Lệ Quyên
- Ngày xưa hoàng thị/ Phạm Thiên Thư - NS Hồng Vân, NS Ngọc Sang
- Hai sắc Hoa Tigon/ TTKH - Hoàng Oanh
- Màu tím hoa sim/ Hữu Loan - Quốc Anh
- Mười Năm - Trần Huyền Trân - NS Hồng Vân
- Những bóng người trên sân ga/ Nguyễn Bính - (đang cập nhật)
- Dư âm/ Lê Vi - Bảo Cường
- Ngậm ngùi/ Huy Cận - Lệ Quyên, Hồng Vân
Đang cập nhật...
Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014
Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2014
HTC Quick Root - Root mọi điện thoại Android của HTC
Root điện thoại Android là nhu cầu tất yếu của những người sử dụng ham mê tìm hiểu công nghệ, tuy nhiên quá trình root một chiếc điện thoại thường khá phức tạp đối với những người sử dụng chưa có kinh nghiệm, hơn nữa nó còn tiềm ẩn các nguy cơ đối với điện thoại.
Mới đây các nhà phát triển trên XDA đã cho ra mắt bộ công cụ giúp cho người sử dụng có thể root bất kỳ thiết bị điện thoại hay máy tính bảng của HTC chạy Android. Bộ công cụ còn giúp người dùng Unroot nhanh chóng khi cần và khởi động máy vào các chế độ hoạt động khác. Để cài đặt và sử dụng bộ công cụ này hãy làm theo các hướng dẫn dưới đây.
Tính năng của bộ công cụ:
Root với 2 phương pháp lựa chọn Insecure ‘Boot.img’ (với thiết bị đã S-OFF) hoặc Universal Exploit. (S-ON / S-OFF)
- Unroot thiết bị đã root.
- Lựa chọn Flash ‘HBOOT’ sau khi Rooting, kể cả với máy ‘S-ON’!
- Kiểm tra MD5 Checksum HBOOT’ Image sau khi back up và sau khi flash.
- Root Tools to Clear Battery Stats and Dalvik Cache.
- Khởi động lại thiết bị vào các chế độ khác nhau sau khi root.
- Triệt để kiểm tra lỗi và thực hiện ổn định ADB Framework.
- BusyBox v1.20.2 và SuperSU v0.96.
Lưu ý:
Các hướng dẫn dưới đây dành riêng cho các điện thoại và máy tính bảng android của HTC, việc áp dụng trên các thiết bị khác có thể dẫn đến những kết quả không mong muốn.
Hướng dẫn chỉ mang tính tham khảo chung, chúng tôi không đảm bảo hướng dẫn sẽ làm việc chính xác trong các hoàn cảnh cụ thể.
Việc root thiết bị sẽ có những nguy cơ nhất định, chúng tôi không chịu bất kỳ trách nhiệm nào với những rủi ro có thể sảy ra với thiết bị.
Đọc và hiểu hướng dẫn trước khi tiến hành.
Yêu cầu:
Bất kỳ điện thoại, máy tính bảng chạy android của HTC.
Windows PC đã được cài đặt driver của HTC, bạn có thể cài đặt driver cho máy tính bằng cách cài đặt HTC Sync.
Bật chế độ USB Debugging cho thiết bị.
Vô hiệu hoá “fastboot” trên thiết bị bằng cách vào Settings > Power menu.
Vô hiệu hóa các phần mềm antivirus, fire wall và các phần mềm có khả năng can thiệp vào điện thoại.
Sao lưu toàn bộ các dữ liệu các nhân như contacts, SMS, MMS, Internet settings, Wi-Fi passwords… cách sao lưu dữ liệu có thể xem tại đây: Cách sao lưu dữ liệu điện thoại Android lên “mây”.
Yêu cầu: Thiết bị HTC sạc trên 60% pin
Cài đặt chi tiết:
- Download tệp tin HTC Quick Root toolkit (HTC_QuickRoot_1.1.13_Release.zip, 1.6 MB) về máy tính theo link sau:
http://forum.xda-developers.com/attachment.php?attachmentid=1309441&d=1347042789
- Giải nén file vừa download bằng phần mềm winzip hoặc winzar ta sẽ được một thư mục có dạng HTC_QuickRoot_1.1.13_Release.
- Trên thiết bị HTC vào Settings > Power và vô hiệu hóa “Fastboot”.
- Kết nối thiết bị với máy tính thông qua cap USB.
- Mở thư mục HTC_QuickRoot_1.1.13_Release và double click file HTC Quick Root.exe để chạy chương trình.
- Thực hiện theo các hướng dẫn trên màn hình để tiến hành Root thiết bị:
- Nếu bạn đang sử dụng Stock rom hãy sử dụng lựa chọn root Universal Exploit.
- Nếu thiết bị của bạn đã được S-OFF sử dụng lựa chọn Insecure Boot.img.
- Chọn phương thức khởi động và nhấn Root Device để tiến hành root thiết bị
- Chúc mừng, bạn đã root thành công thiết bị HTC của mình thông qua HTC Quick Root toolkit.
Nguồn: http://www.sforum.vn/2013/01/ra-mat-htc-quick-root-toolkit-cong-cu-ho-tro-root-cho-nhieu-dong-cua-htc/
Mới đây các nhà phát triển trên XDA đã cho ra mắt bộ công cụ giúp cho người sử dụng có thể root bất kỳ thiết bị điện thoại hay máy tính bảng của HTC chạy Android. Bộ công cụ còn giúp người dùng Unroot nhanh chóng khi cần và khởi động máy vào các chế độ hoạt động khác. Để cài đặt và sử dụng bộ công cụ này hãy làm theo các hướng dẫn dưới đây.
Tính năng của bộ công cụ:
Root với 2 phương pháp lựa chọn Insecure ‘Boot.img’ (với thiết bị đã S-OFF) hoặc Universal Exploit. (S-ON / S-OFF)
- Unroot thiết bị đã root.
- Lựa chọn Flash ‘HBOOT’ sau khi Rooting, kể cả với máy ‘S-ON’!
- Kiểm tra MD5 Checksum HBOOT’ Image sau khi back up và sau khi flash.
- Root Tools to Clear Battery Stats and Dalvik Cache.
- Khởi động lại thiết bị vào các chế độ khác nhau sau khi root.
- Triệt để kiểm tra lỗi và thực hiện ổn định ADB Framework.
- BusyBox v1.20.2 và SuperSU v0.96.
Lưu ý:
Các hướng dẫn dưới đây dành riêng cho các điện thoại và máy tính bảng android của HTC, việc áp dụng trên các thiết bị khác có thể dẫn đến những kết quả không mong muốn.
Hướng dẫn chỉ mang tính tham khảo chung, chúng tôi không đảm bảo hướng dẫn sẽ làm việc chính xác trong các hoàn cảnh cụ thể.
Việc root thiết bị sẽ có những nguy cơ nhất định, chúng tôi không chịu bất kỳ trách nhiệm nào với những rủi ro có thể sảy ra với thiết bị.
Đọc và hiểu hướng dẫn trước khi tiến hành.
Yêu cầu:
Bất kỳ điện thoại, máy tính bảng chạy android của HTC.
Windows PC đã được cài đặt driver của HTC, bạn có thể cài đặt driver cho máy tính bằng cách cài đặt HTC Sync.
Bật chế độ USB Debugging cho thiết bị.
Vô hiệu hoá “fastboot” trên thiết bị bằng cách vào Settings > Power menu.
Vô hiệu hóa các phần mềm antivirus, fire wall và các phần mềm có khả năng can thiệp vào điện thoại.
Sao lưu toàn bộ các dữ liệu các nhân như contacts, SMS, MMS, Internet settings, Wi-Fi passwords… cách sao lưu dữ liệu có thể xem tại đây: Cách sao lưu dữ liệu điện thoại Android lên “mây”.
Yêu cầu: Thiết bị HTC sạc trên 60% pin
Cài đặt chi tiết:
- Download tệp tin HTC Quick Root toolkit (HTC_QuickRoot_1.1.13_Release.zip, 1.6 MB) về máy tính theo link sau:
http://forum.xda-developers.com/attachment.php?attachmentid=1309441&d=1347042789
- Giải nén file vừa download bằng phần mềm winzip hoặc winzar ta sẽ được một thư mục có dạng HTC_QuickRoot_1.1.13_Release.
- Trên thiết bị HTC vào Settings > Power và vô hiệu hóa “Fastboot”.
- Kết nối thiết bị với máy tính thông qua cap USB.
- Mở thư mục HTC_QuickRoot_1.1.13_Release và double click file HTC Quick Root.exe để chạy chương trình.
- Thực hiện theo các hướng dẫn trên màn hình để tiến hành Root thiết bị:
- Nếu bạn đang sử dụng Stock rom hãy sử dụng lựa chọn root Universal Exploit.
- Nếu thiết bị của bạn đã được S-OFF sử dụng lựa chọn Insecure Boot.img.
- Chọn phương thức khởi động và nhấn Root Device để tiến hành root thiết bị
- Chúc mừng, bạn đã root thành công thiết bị HTC của mình thông qua HTC Quick Root toolkit.
Nguồn: http://www.sforum.vn/2013/01/ra-mat-htc-quick-root-toolkit-cong-cu-ho-tro-root-cho-nhieu-dong-cua-htc/
Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014
Nhúng video chất lượng cao HD từ YouTube
Hiện YouTube cung cấp video chất lượng cao (HD) với các cấp độ điểm ảnh là 720p, 1080p, 1440p, 2160p .
Để nhúng video chất lượng HD, bạn dùng mã nhúng sau:
1. Đối với độ phân giải 720p:
<iframe width="640" height="400" src="//www.youtube.com/embed/HJwMK1x-m2o?&autoplay=0&rel=0&vq=hd720" frameborder="0" allowfullscreen=""></iframe>
Thêm đoạn này &vq=hd720 vào sau đường dẫn (URL) video của YouTube trong mã nhúng. Đổi autoplay=1 để clip tự động phát nếu muốn.
2. Đối với độ phân giải 1080p:
<iframe width="640" height="400" src="//www.youtube.com/embed/HJwMK1x-m2o?&autoplay=0&rel=0&vq=hd1080" frameborder="0" allowfullscreen=""></iframe>
Minh họa:
3. Đối với độ phân giải 1440p (Yêu cầu kết nối internet tốc độ cao):
<iframe width="640" height="400" src="//www.youtube.com/embed/HJwMK1x-m2o?&autoplay=0&rel=0&vq=hd1440" frameborder="0" allowfullscreen=""></iframe>
4. Đối với độ phân giải 2160p (Yêu cầu kết nối internet tốc độ cao):
<iframe width="640" height="400" src="//www.youtube.com/embed/HJwMK1x-m2o?&autoplay=0&rel=0&vq=hd2160" frameborder="0" allowfullscreen=""></iframe>
----------------------
Để nhúng video chất lượng HD, bạn dùng mã nhúng sau:
1. Đối với độ phân giải 720p:
<iframe width="640" height="400" src="//www.youtube.com/embed/HJwMK1x-m2o?&autoplay=0&rel=0&vq=hd720" frameborder="0" allowfullscreen=""></iframe>
Thêm đoạn này &vq=hd720 vào sau đường dẫn (URL) video của YouTube trong mã nhúng. Đổi autoplay=1 để clip tự động phát nếu muốn.
2. Đối với độ phân giải 1080p:
<iframe width="640" height="400" src="//www.youtube.com/embed/HJwMK1x-m2o?&autoplay=0&rel=0&vq=hd1080" frameborder="0" allowfullscreen=""></iframe>
Minh họa:
3. Đối với độ phân giải 1440p (Yêu cầu kết nối internet tốc độ cao):
<iframe width="640" height="400" src="//www.youtube.com/embed/HJwMK1x-m2o?&autoplay=0&rel=0&vq=hd1440" frameborder="0" allowfullscreen=""></iframe>
4. Đối với độ phân giải 2160p (Yêu cầu kết nối internet tốc độ cao):
<iframe width="640" height="400" src="//www.youtube.com/embed/HJwMK1x-m2o?&autoplay=0&rel=0&vq=hd2160" frameborder="0" allowfullscreen=""></iframe>
----------------------
Xin một lần yêu nhau - Cải lương
Thể loại: Việt Nam, Cải Lương
Soạn giả Nguyên Thảo
Thành phần nghệ sĩ LỆ THỦY & MINH PHỤNG - MINH VƯƠNG & PHƯỢNG LIÊN - Dũng Thanh Lâm - Diệp Lang - Văn Khoe ...
Tàu ngầm Kilo Việt Nam có thể bị phát hiện như thế nào ?
Bài viết nói về các cách thức mà hải quân các nước thường sử dụng để phát hiện tàu ngầm.
Theo Báo Đất Việt, trên các chiến hạm và máy bay hiện đại của hải quân các nước đều có các thiết bị tìm kiếm, thăm dò chuyên dụng như radar, sonar, thiết bị định vị…, các thiết bị này đều có khả năng trinh sát, phát hiện và theo dõi tàu ngầm.
Ngoài phương thức đối kháng tàu ngầm - tàu ngầm ra, từ trước đến nay, máy bay tuần tiễu chống ngầm cố định là mối đe dọa lớn nhất đối với các tàu ngầm vì tầm bay xa tới hàng chục nghìn km, thời gian lưu không lớn, các thiết bị trinh sát, định vị tàu ngầm tiên tiến.
Hơn nữa, nó có khả năng mang theo các vũ khí săn ngầm rất mạnh, trần bay vượt quá độ cao tấn công của các tên lửa phòng không trên tàu ngầm.
Đối tượng thứ 2 là các máy bay trực thăng chống ngầm. Tuy nhiên với phạm vi hoạt động chưa tới 1000km, chúng chỉ có khả năng hoạt động xa tàu mẹ khoảng vài trăm km với khả năng lưu không không lớn, nếu không có chỉ thị mục tiêu sẵn nó khó có khả năng và tầm với để phát hiện được tàu ngầm.
Còn một đối thủ nữa của tàu ngầm các tàu săn ngầm, tuy nhiên các phương tiện trinh sát, phát hiện tàu ngầm của các tàu mặt nước thường chỉ được vài chục km.
Hơn nữa, cũng giống như máy bay trực thăng, ngư lôi săn ngầm trên hạm thường chỉ có tầm bắn không quá 15km, quá khó để nó áp sát các tàu ngầm mang các tên lửa chống hạm tầm phóng thường đạt trên 100 km.
Máy bay tuần tiễu săn ngầm cánh cố định như P-8A Poseidon và P-3C Orion vẫn chưa phải là điều làm tàu ngầm lo sợ nhất
Với đặc điểm là các sát thủ dưới đáy biển, tàu ngầm chỉ bộc lộ mình những khi thật cần thiết.
Ngay cả khả năng phòng không của chúng cũng đơn thuần để chỉ tự vệ, sử dụng những khi không thể che giấu được hành tung, còn cơ bản là các tàu ngầm chọn phương thức cơ động lẩn tránh để đào thoát khỏi “mắt thần” của các phương tiện săn ngầm.
Hiểm họa lớn nhất đối với tàu ngầm đến từ đâu?
Trên thực tế, các máy bay săn ngầm nếu không phán đoán được hoạt động của tàu ngầm thì rất khó phát hiện được chúng trên một vùng biển lớn.
Không phải lúc nào các máy bay cũng có thể quan sát thấy 1 cái kính tiềm vọng hay ống dẫn khí nhô lên khỏi mặt nước hoặc không phải lúc nào các tàu ngầm cũng vô tình đi qua các bãi sonar mà máy bay thả trên mặt biển.
Hơn nữa, trong thực tế tác chiến, các tàu ngầm thường có sự phối hợp hoạt động chặt chẽ với các tàu mặt nước và lực lượng không quân, nên lực lượng máy bay săn ngầm (cả cánh cố định và trực thăng) của đối phương vốn có vận tốc rất chậm sẽ khó mà yên ổn để săn đuổi tàu ngầm, trừ khi chúng hoạt động đơn độc kiểu như một tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo tuần tra chiến lược viễn dương.
Hiểm họa lớn nhất đối với các tàu ngầm hiện nay không phải là máy bay, cũng không phải là các tàu săn ngầm mà nó đến từ các hệ thống thiết bị cảm biến âm thanh mà đối phương bí mật rải dưới đáy biển để trinh sát, phát hiện tàu ngầm.
Những thiết bị rất khó phát hiện này thu nhận các xung động thủy âm dưới đáy biển và truyền phát về cho trung tâm chỉ huy phân tích, sàng lọc để phát hiện tàu ngầm.
Hiện nay, Mỹ là nước đi đầu trong hình thức trinh sát kiểu này với một mạng lưới các hệ thống cảm biến dưới đáy biển trên khắp các đại dương, triển khai từ thập niên 60 thế kỷ trước để theo dõi các tàu ngầm Liên Xô.
Các tín hiệu truyền về được thu nhận bởi các tàu trinh sát kỹ thuật hoặc tàu đo đạc âm hưởng. Chúng cũng có thể được thu nhận bởi 1 trạm trung gian có nhiệm vụ khuyếch đại và chuyển tiếp đến trung tâm xử lý nên có thể truyền dẫn tín hiệu đi rất xa.
Có thể nói đây mới chính là kẻ thù nguy hiểm nhất của tàu ngầm. Điều này chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng qua vụ Nhật bị “mất trộm” thiết bị trinh sát ngầm dưới nước có giá trị khoảng 500 triệu yên (khoảng 5 triệu USD).
Thiết bị này cho phép theo dõi sự di chuyển của tàu ngầm nước ngoài, bởi nó ghi nhận được những thay đổi trong nhiệt độ nước và sự di chuyển của các dòng hải lưu.
Tàu đổ bộ Côn Luân Sơn của Trung Quốc mang theo 10 người nhái đến tham gia tìm kiếm máy bay mất tích
Theo báo cáo ngày 29-1-2014 của hải quân Nhật Bản, thiết bị có trọng lượng khoảng 5 tấn được nối bằng dây cáp với con tàu tình báo “Nitinan” đang làm nhiệm vụ tại eo biển Tsugaru (giữa các đảo Honshiu và Hokkaido) đã bị mất trộm từ ngày 30-11-2013.
Sau gần 2 tháng lùng sục tìm kiếm dưới đáy biển trong vô vọng, các chuyên viên hải quân Nhật Bản khẳng định là đã bị mất bộ thiết bị vô giá này.
Hiện nay, có mặt tại khu vực tìm kiếm máy bay Malaysia có lực lượng của rất nhiều cường quốc hải quân như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản…. Điểm đặc biệt đáng chú ý là phần lớn các chiến hạm tham gia tìm kiếm đều có lực lượng người nhái đông đảo.
Ví dụ như trên tàu đổ bộ Type 071 Côn Luân Sơn của Trung Quốc có tới 10 người nhái, còn tàu khu trục tên lửa Hải Khẩu cũng có 4 chuyên gia bơi lặn.
Khi tham gia lặn biển những người nhái này đều mang theo các thiết bị tìm kiếm, đo đạc và định vị dưới nước để xác định địa hình, địa vật dưới đáy biển.
Chúng ta không nghi ngờ mục đích tìm kiếm nhân đạo của họ nhưng biết đâu có thể sau khi thực hiện nhiệm vụ họ có thể làm rơi mất hoặc để quên một số thiết bị trong lòng đại dương.
Và rất có thể, trong tương lai chúng sẽ gây rắc rối cho tất cả các tàu ngầm qua lại khu vực này, chứ không riêng gì tàu ngầm Việt Nam.
Thiên Nam , Báo Đất Việt (tổng hợp)
Theo Báo Đất Việt, trên các chiến hạm và máy bay hiện đại của hải quân các nước đều có các thiết bị tìm kiếm, thăm dò chuyên dụng như radar, sonar, thiết bị định vị…, các thiết bị này đều có khả năng trinh sát, phát hiện và theo dõi tàu ngầm.
Ngoài phương thức đối kháng tàu ngầm - tàu ngầm ra, từ trước đến nay, máy bay tuần tiễu chống ngầm cố định là mối đe dọa lớn nhất đối với các tàu ngầm vì tầm bay xa tới hàng chục nghìn km, thời gian lưu không lớn, các thiết bị trinh sát, định vị tàu ngầm tiên tiến.
Hơn nữa, nó có khả năng mang theo các vũ khí săn ngầm rất mạnh, trần bay vượt quá độ cao tấn công của các tên lửa phòng không trên tàu ngầm.
Đối tượng thứ 2 là các máy bay trực thăng chống ngầm. Tuy nhiên với phạm vi hoạt động chưa tới 1000km, chúng chỉ có khả năng hoạt động xa tàu mẹ khoảng vài trăm km với khả năng lưu không không lớn, nếu không có chỉ thị mục tiêu sẵn nó khó có khả năng và tầm với để phát hiện được tàu ngầm.
Còn một đối thủ nữa của tàu ngầm các tàu săn ngầm, tuy nhiên các phương tiện trinh sát, phát hiện tàu ngầm của các tàu mặt nước thường chỉ được vài chục km.
Hơn nữa, cũng giống như máy bay trực thăng, ngư lôi săn ngầm trên hạm thường chỉ có tầm bắn không quá 15km, quá khó để nó áp sát các tàu ngầm mang các tên lửa chống hạm tầm phóng thường đạt trên 100 km.
Máy bay tuần tiễu săn ngầm cánh cố định như P-8A Poseidon và P-3C Orion vẫn chưa phải là điều làm tàu ngầm lo sợ nhất
Với đặc điểm là các sát thủ dưới đáy biển, tàu ngầm chỉ bộc lộ mình những khi thật cần thiết.
Ngay cả khả năng phòng không của chúng cũng đơn thuần để chỉ tự vệ, sử dụng những khi không thể che giấu được hành tung, còn cơ bản là các tàu ngầm chọn phương thức cơ động lẩn tránh để đào thoát khỏi “mắt thần” của các phương tiện săn ngầm.
Hiểm họa lớn nhất đối với tàu ngầm đến từ đâu?
Trên thực tế, các máy bay săn ngầm nếu không phán đoán được hoạt động của tàu ngầm thì rất khó phát hiện được chúng trên một vùng biển lớn.
Không phải lúc nào các máy bay cũng có thể quan sát thấy 1 cái kính tiềm vọng hay ống dẫn khí nhô lên khỏi mặt nước hoặc không phải lúc nào các tàu ngầm cũng vô tình đi qua các bãi sonar mà máy bay thả trên mặt biển.
Hơn nữa, trong thực tế tác chiến, các tàu ngầm thường có sự phối hợp hoạt động chặt chẽ với các tàu mặt nước và lực lượng không quân, nên lực lượng máy bay săn ngầm (cả cánh cố định và trực thăng) của đối phương vốn có vận tốc rất chậm sẽ khó mà yên ổn để săn đuổi tàu ngầm, trừ khi chúng hoạt động đơn độc kiểu như một tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo tuần tra chiến lược viễn dương.
Hiểm họa lớn nhất đối với các tàu ngầm hiện nay không phải là máy bay, cũng không phải là các tàu săn ngầm mà nó đến từ các hệ thống thiết bị cảm biến âm thanh mà đối phương bí mật rải dưới đáy biển để trinh sát, phát hiện tàu ngầm.
Những thiết bị rất khó phát hiện này thu nhận các xung động thủy âm dưới đáy biển và truyền phát về cho trung tâm chỉ huy phân tích, sàng lọc để phát hiện tàu ngầm.
Hiện nay, Mỹ là nước đi đầu trong hình thức trinh sát kiểu này với một mạng lưới các hệ thống cảm biến dưới đáy biển trên khắp các đại dương, triển khai từ thập niên 60 thế kỷ trước để theo dõi các tàu ngầm Liên Xô.
Các tín hiệu truyền về được thu nhận bởi các tàu trinh sát kỹ thuật hoặc tàu đo đạc âm hưởng. Chúng cũng có thể được thu nhận bởi 1 trạm trung gian có nhiệm vụ khuyếch đại và chuyển tiếp đến trung tâm xử lý nên có thể truyền dẫn tín hiệu đi rất xa.
Có thể nói đây mới chính là kẻ thù nguy hiểm nhất của tàu ngầm. Điều này chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng qua vụ Nhật bị “mất trộm” thiết bị trinh sát ngầm dưới nước có giá trị khoảng 500 triệu yên (khoảng 5 triệu USD).
Thiết bị này cho phép theo dõi sự di chuyển của tàu ngầm nước ngoài, bởi nó ghi nhận được những thay đổi trong nhiệt độ nước và sự di chuyển của các dòng hải lưu.
Tàu đổ bộ Côn Luân Sơn của Trung Quốc mang theo 10 người nhái đến tham gia tìm kiếm máy bay mất tích
Theo báo cáo ngày 29-1-2014 của hải quân Nhật Bản, thiết bị có trọng lượng khoảng 5 tấn được nối bằng dây cáp với con tàu tình báo “Nitinan” đang làm nhiệm vụ tại eo biển Tsugaru (giữa các đảo Honshiu và Hokkaido) đã bị mất trộm từ ngày 30-11-2013.
Sau gần 2 tháng lùng sục tìm kiếm dưới đáy biển trong vô vọng, các chuyên viên hải quân Nhật Bản khẳng định là đã bị mất bộ thiết bị vô giá này.
Hiện nay, có mặt tại khu vực tìm kiếm máy bay Malaysia có lực lượng của rất nhiều cường quốc hải quân như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản…. Điểm đặc biệt đáng chú ý là phần lớn các chiến hạm tham gia tìm kiếm đều có lực lượng người nhái đông đảo.
Ví dụ như trên tàu đổ bộ Type 071 Côn Luân Sơn của Trung Quốc có tới 10 người nhái, còn tàu khu trục tên lửa Hải Khẩu cũng có 4 chuyên gia bơi lặn.
Khi tham gia lặn biển những người nhái này đều mang theo các thiết bị tìm kiếm, đo đạc và định vị dưới nước để xác định địa hình, địa vật dưới đáy biển.
Chúng ta không nghi ngờ mục đích tìm kiếm nhân đạo của họ nhưng biết đâu có thể sau khi thực hiện nhiệm vụ họ có thể làm rơi mất hoặc để quên một số thiết bị trong lòng đại dương.
Và rất có thể, trong tương lai chúng sẽ gây rắc rối cho tất cả các tàu ngầm qua lại khu vực này, chứ không riêng gì tàu ngầm Việt Nam.
Thiên Nam , Báo Đất Việt (tổng hợp)
Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014
Các phương tiện Việt Nam truy tìm phi cơ mất tích của Malaysia
Mắt thần Biển Đông" của Việt Nam, tàu đổ bộ lớn nhất của Trung Quốc, hai khu trục hạm của Mỹ đang tham gia chiến dịch tìm chiếc Boeing 777 của Malaysia Airlines.
Máy bay tuần thám biển CASA của Cảnh sát Biển Việt Nam đang rà soát trên biển nhằm tìm ra phi cơ mất tích của hãng hàng không Malaysia Airlines. Ngươi ta gọi CASA là “mắt thần Biển Đông” do nó sở hữu nhiều trang thiết bị hiện đại để thực hiện tốt nhiệm vụ tuần thám hải quân. Ảnh: QDND.
Trước đó không quân Việt Nam đã cử các máy bay AN-26 rà soát vùng biển nghi vấn nhằm tìm kiếm manh mối về chuyến bay MH370 của Malaysia Airlines. Suốt những ngày qua, phi đội bay 3 chiếc AN-26 của không quân Việt Nam hoạt động liên tục để tìm kiếm những vật thể trên biển.
Ngoài ra, Việt Nam còn triển khai thủy phi cơ DHC-6. Chiều 9/3, Quân chủng Hải quân đã điều động phi cơ số hiệu VNT 777 từ Cam Ranh tham gia tìm kiếm cứu nạn chiếc máy bay Malaysia mất tích.
Nhằm tiếp cận dị vật ở khoảng cách gần, không quân Việt Nam cử trực thăng đa nhiệm Mil Mi-171 tham gia hoạt động tìm kiếm. Khả năng cơ động giúp Mi-171 dễ dàng trục vớt dị vật hoặc hỗ trợ xác định chúng là mảnh vỡ từ chiếc Boeing 777 mất tích hay không.
Bên cạnh nỗ lực rà soát từ trên không, Việt Nam cũng cử các tàu cứu hộ, tàu hải quân, tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển tới khu vực phi hành đoàn chuyến bay MH370 liên lạc lần cuối. Các tàu cứu hộ của Việt Nam bao gồm SAR-413, SAR-272. Tàu SAR 413 đang đảm nhiệm vai trò trung tâm chỉ huy của chiến dịch. Ảnh: QDND.
Cảnh sát biển Việt Nam đưa hai tàu CSB-2001 và CSB-2003 tham gia chiến dịch tìm kiếm. Các tàu hải quân HQ-954, HQ-637, HQ-888 và tàu kiểm ngư KN-774 cũng thực hiện nhiệm vụ tương tự. Chúng rà soát mặt biển, tiếp cận và nghiên cứu những vật thể mà các đội tìm kiếm trên không thể phát hiện. Ảnh: QDND.
Trong diễn biến mới nhất, Việt Nam quyết định sử dụng VNREDSAT-1, vệ tinh quang học quan sát trái đất, có khả năng chụp hình toàn bộ bề mặt địa cầ,u để tìm kiếm tung tích chiếc Boeing 777 của Malaysia. Vào 11h hôm 11/3, VNREDSAT-1 bay qua vùng biển mà chiếc Boeing 777 phát tín hiệu lần cuối. Ảnh: Astrium.
Việt Nam thành lập Trạm radar ở Cà Mau chỉ huy các chuyến bay tìm kiếm cứu nạn trên biển - Ảnh: Quốc Huy
Các chiến hạm Việt Nam neo đậu ở Phú Quốc sẵn sàng xuất phát phục vụ tìm kiếm máy bay Malaysia mất tích khi có lệnh. Ảnh: BBC
Máy bay tuần thám biển CASA của Cảnh sát Biển Việt Nam đang rà soát trên biển nhằm tìm ra phi cơ mất tích của hãng hàng không Malaysia Airlines. Ngươi ta gọi CASA là “mắt thần Biển Đông” do nó sở hữu nhiều trang thiết bị hiện đại để thực hiện tốt nhiệm vụ tuần thám hải quân. Ảnh: QDND.
Trước đó không quân Việt Nam đã cử các máy bay AN-26 rà soát vùng biển nghi vấn nhằm tìm kiếm manh mối về chuyến bay MH370 của Malaysia Airlines. Suốt những ngày qua, phi đội bay 3 chiếc AN-26 của không quân Việt Nam hoạt động liên tục để tìm kiếm những vật thể trên biển.
Ngoài ra, Việt Nam còn triển khai thủy phi cơ DHC-6. Chiều 9/3, Quân chủng Hải quân đã điều động phi cơ số hiệu VNT 777 từ Cam Ranh tham gia tìm kiếm cứu nạn chiếc máy bay Malaysia mất tích.
Nhằm tiếp cận dị vật ở khoảng cách gần, không quân Việt Nam cử trực thăng đa nhiệm Mil Mi-171 tham gia hoạt động tìm kiếm. Khả năng cơ động giúp Mi-171 dễ dàng trục vớt dị vật hoặc hỗ trợ xác định chúng là mảnh vỡ từ chiếc Boeing 777 mất tích hay không.
Bên cạnh nỗ lực rà soát từ trên không, Việt Nam cũng cử các tàu cứu hộ, tàu hải quân, tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển tới khu vực phi hành đoàn chuyến bay MH370 liên lạc lần cuối. Các tàu cứu hộ của Việt Nam bao gồm SAR-413, SAR-272. Tàu SAR 413 đang đảm nhiệm vai trò trung tâm chỉ huy của chiến dịch. Ảnh: QDND.
Cảnh sát biển Việt Nam đưa hai tàu CSB-2001 và CSB-2003 tham gia chiến dịch tìm kiếm. Các tàu hải quân HQ-954, HQ-637, HQ-888 và tàu kiểm ngư KN-774 cũng thực hiện nhiệm vụ tương tự. Chúng rà soát mặt biển, tiếp cận và nghiên cứu những vật thể mà các đội tìm kiếm trên không thể phát hiện. Ảnh: QDND.
Trong diễn biến mới nhất, Việt Nam quyết định sử dụng VNREDSAT-1, vệ tinh quang học quan sát trái đất, có khả năng chụp hình toàn bộ bề mặt địa cầ,u để tìm kiếm tung tích chiếc Boeing 777 của Malaysia. Vào 11h hôm 11/3, VNREDSAT-1 bay qua vùng biển mà chiếc Boeing 777 phát tín hiệu lần cuối. Ảnh: Astrium.
Việt Nam thành lập Trạm radar ở Cà Mau chỉ huy các chuyến bay tìm kiếm cứu nạn trên biển - Ảnh: Quốc Huy
Các chiến hạm Việt Nam neo đậu ở Phú Quốc sẵn sàng xuất phát phục vụ tìm kiếm máy bay Malaysia mất tích khi có lệnh. Ảnh: BBC
Tên lửa DF-21D - "Sát thủ tàu sân bay" của Trung Quốc
Một họa sĩ đã phát họa khả năng của tên lửa đạn đạo dẫn đường chống tàu của TQ. Các mô phỏng cho thấy tên lửa đang tấn công một tàu sân bay. Tên lửa bay theo nhiều giai đoạn có sử dụng vòi phun lái đến vị trí tấn công trên quỹ đạo bay của nó trong khi né tránh tên lửa đánh chặn trong không gian ...
Trước khi xâm nhập trở lại bầu khí quyển, một phương tiện chống đánh chặn tách ra khỏi tên lửa mang theo một đầu đạn duy nhất được bảo vệ. Phần này cũng được trang bị ứng dụng điện tử gây nhiễu để tránh bị đánh chặn và hướng vị trí đầu đạn vào mục tiêu.
DF-21 có khả năng mang đầu đạn hạt nhân 0.3 - 0.5kt hoặc một số đầu đạn hạt nhân thông thường.
Thứ Ba, 11 tháng 3, 2014
Đêm Đông Hà Nội
Hà Nội, một cái tên gợi lên nhiều xúc cảm với bao dấu ấn của hơn 1000 năm lịch sử. Nhắc đến Hà Nội, người ta khó lòng bỏ qua những đêm đông cuộn mình trong chăn ấm mà tưởng thưởng cái lặng lẽ, cái bình yên nơi đây như một nốt trầm duyên dáng giữa nhịp sống hiện đại bộn bề - Tú Đào.
Giao lưu nghệ thuật XUÂN TRƯỜNG SA 2014
Xuân Trường Sa sẽ diễn ra vào 20h5 ngày 8/3/2014 TẠI Trung tâm nghệ thuật Âu Cơ, Hà Nội và được tường thuật trực tiếp trên VTV1.
Giao lưu nghệ thuật XUÂN TRƯỜNG SA 2014 DO Ban Tuyên giáo TW, Báo Điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam, Tạp chí Truyền hình - Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức.
Chương trình bao gồm 3 phần: Hậu trường với Trường Sa, Xuân Trường Sa và Cả nước với Trường Sa. Trong đó, Hậu trường với Trường Sa nói về 25 năm ngày quốc phòng toàn dân, sự hi sinh của hậu phương đối với tiền tuyến, những người vợ người mẹ trong việc xây dựng và củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân trên biển.
Phần 2 là Xuân Trường Sa với Sự vun đắp của toàn quân, toàn dân đã khiến Trường Sa có một diện mạo mới, sức sống mới và hơi ấm của đất liền đã lan ra tới Trường Sa.
Phần cuối cùng là Cả nước với Trường Sa là nói về những đổi thay ở Trường Sa bây giờ còn có sự đóng góp rất lớn của cộng đồng bằng nhiều hình thức khác nhau.
Chương trình sẽ có những phóng sự ý nghĩa, phần giao lưu cùng với các khách mời chất chứa nhiều tình cảm và những ca khúc gắn liền với Trường Sa qua phần thể hiện của các ca sỹ nổi tiếng như Tùng Dương, Anh Thơ, Trọng Tấn...
Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014
Cận cảnh hiện trường máy bay Malaysia mất tích
Chú thích: Vào thời điểm 15 giờ chiều nay các vệt được nghi là dầu loang đã loang rộng ra khắp vùng biển, không còn kéo thành vệt dài như buổi sáng và ngày hôm trước. (09/03/2014)
Đêm Lạnh Chùa Hoang
Thể loại: Việt Nam, Cải Lương
Soạn giả: Yên Lang
Thành phần nghệ sĩ LỆ THỦY - MINH CẢNH - MINH VƯƠNG - PHƯỢNG LIÊN - Thanh Sang - Thanh Thanh Hoa - Nam Hùng & Văn Chung.
Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2014
Cải lương: Người tình trên chiến trận
Trên đường chạy loạn, mẹ con Tiêu Kim Yến gặp một lão thầy thuốc Mông Cổ tỏ ra nhiều tình cảm với dân Tây Hạ. Giặc Mông Cổ sắp sang sông, quân Tây Hạ rút lui để bảo toàn lực lượng chỉ để lại một toán quân nhỏ do Cổ Thạch Xuyên cầm đầu hy sinh ở lại chặn đường quân Mông Cổ.
Chúng bị A-Khắc Lữ, kẻ chỉ huy đoàn quân xâm lược bắt cầm tù, nhưng con gái nuôi ông ta A-Khắc Thiên Kiều, cảm tình với người trai hiên ngang, nàng xổ lồng tháo củi. Tiêu Kim Yến bị giặc bắt ép phải làm vợ A-Khắc Lữ, Cổ Thạch Xuyên lẻn vào giải cứu nàng nhưng thọ trọng thương và bất tỉnh nơi dinh trại của Thiên Kiều. Lão thầy thuốc Tiêu Minh được gọi đến cứu chữa. lão vui mừng khi thấy Kiều có cảm tình với một người Tây Hạ nhưng lại tỏ ra xót xa trước sự hy sinh của nàng.
Việc này bị Chu Sa phát hiện, chàng gọi cha tới, A-Khắc Lữ không thể giết Thạch Xuyên vì lời van xin của Thiên Kiều, ông bắt chàng làm nô lệ và theo đoàn mã phu đưa Thiên Kiều về Mông Cổ. Tiêu lão mẫu đến trại quân Mông Cổ tìm con. Nơi đây bà gặp lại lão thầy thuốc và nhìn ra đó là chồng mình đã mất tích cùng con gái tên Tiêu Kim Phụng trong chuyến đi buôn mười mấy năm trước.
Bà hỏi tin con, nhưng ông cắn răng nghẹn ngào không nói. Bất ngờ Thiên Kiều đến đây ra lệnh bắt giam Tiêu lão mẫu vì nghi bà thám dọ quân tình. Tới ngày Thiên Kiều về Mông Cổ, Chu Sa không dằn được kể cho Thiên Kiều biết sự thật, trước sự nóng giận của A-Khắc Lữ. Chu Sa lên ngựa phóng như điên về hướng quân Tây Hạ. Thừa lúc lộn xộn, Kim Yến lén giải thoát cho Thạch Xuyên.
Cách đơn giản tiết kiệm pin trên thiết bị Android
Thời lượng pin trên các thiết bị di động luôn là điều khiến nhiều người dùng phải lo lắng. Những cách thiết lập đơn giản sau đây có thể giúp những người dùng smartphone hay tablet Android có thể tăng thời lượng pin đáng kể.
Tắt định vị và lịch trình
GPS là ứng dụng ngốn pin khủng khiếp vì ứng dụng này liên tục khai thác dữ liệu từ điện thoại kết hợp với các trạm phát sóng và Wi-fi (hoặc 3G) để tìm vị trí của người dùng. Càng sử dụng định vị nhiều, pin thiết bị di động bị ngốn càng nhanh.
Mặc dù các ứng dụng định vị và lưu hành trình khi kết hợp với các ứng dụng khác của Google có thể giúp người dùng có thêm những trải nghiệm. Nhưng nếu để tiết kiệm pin, người dùng nên tắt chúng những khi không thực sự cần thiết.
Để tắt ứng dụng này, người dùng vào Settings > Location > Google Location Reporting và vô hiệu hóa 2 tính năng này.
Tắt thẻ Google Now
Google Now được coi là một trợ lý ảo hỗ trợ đắc lực người dùng, nhưng một số dịch vụ của nó luôn luôn chủ động thu thập thông tin trên các lịch sử tìm kiếm của người dùng khiến lượng pin cũng hao rất nhanh.
Để vô hiệu hóa tính năng này, vào Google Now, cuộn xuống dưới cùng và chọn những thẻ mà bạn thực sự cần. Các thẻ liên quan GPS sẽ ngốn pin nhiều nhất nên tắt "Travel time" và "Nearby places" để tăng thời lượng pin.
Bỏ chế độ quét Wi-Fi tự động
Wi-Fi là một trong những tính năng cũng khiến hao pin nhanh. Với các thiết bị di động Android, ngay cả khi Wi-Fi đã tắt, điện thoại vẫn liên tục quét tìm kiếm mạng.
Để chắc chắn điều này không tiếp tục, người dùng cần thiết lập lại, vào Advanced, sau đó bỏ tùy chọn quét Wi-Fi tự động. Tuy sau đó việc kết nối Wi-Fi bạn sẽ phải thực hiện quét thủ công bằng tay nhưng điện thoại của bạn sẽ có thời lượng pin tốt hơn.
Ngoài ra, việc tắt bớt các widget không sử dụng, hạn chế dùng các hình nền động và có độ sáng cao, tắt tính năng tự động cập nhật, sạc pin đúng cách,... cũng sẽ giúp tiết kiệm pin cho các thiết bị di động Android.
Video thực hiện các thiết lập giúp tăng thời lượng pin cho smartphone Android:
Hải Phong (theo CNET)
Tắt định vị và lịch trình
GPS là ứng dụng ngốn pin khủng khiếp vì ứng dụng này liên tục khai thác dữ liệu từ điện thoại kết hợp với các trạm phát sóng và Wi-fi (hoặc 3G) để tìm vị trí của người dùng. Càng sử dụng định vị nhiều, pin thiết bị di động bị ngốn càng nhanh.
Mặc dù các ứng dụng định vị và lưu hành trình khi kết hợp với các ứng dụng khác của Google có thể giúp người dùng có thêm những trải nghiệm. Nhưng nếu để tiết kiệm pin, người dùng nên tắt chúng những khi không thực sự cần thiết.
Để tắt ứng dụng này, người dùng vào Settings > Location > Google Location Reporting và vô hiệu hóa 2 tính năng này.
Tắt thẻ Google Now
Google Now được coi là một trợ lý ảo hỗ trợ đắc lực người dùng, nhưng một số dịch vụ của nó luôn luôn chủ động thu thập thông tin trên các lịch sử tìm kiếm của người dùng khiến lượng pin cũng hao rất nhanh.
Để vô hiệu hóa tính năng này, vào Google Now, cuộn xuống dưới cùng và chọn những thẻ mà bạn thực sự cần. Các thẻ liên quan GPS sẽ ngốn pin nhiều nhất nên tắt "Travel time" và "Nearby places" để tăng thời lượng pin.
Bỏ chế độ quét Wi-Fi tự động
Wi-Fi là một trong những tính năng cũng khiến hao pin nhanh. Với các thiết bị di động Android, ngay cả khi Wi-Fi đã tắt, điện thoại vẫn liên tục quét tìm kiếm mạng.
Để chắc chắn điều này không tiếp tục, người dùng cần thiết lập lại, vào Advanced, sau đó bỏ tùy chọn quét Wi-Fi tự động. Tuy sau đó việc kết nối Wi-Fi bạn sẽ phải thực hiện quét thủ công bằng tay nhưng điện thoại của bạn sẽ có thời lượng pin tốt hơn.
Ngoài ra, việc tắt bớt các widget không sử dụng, hạn chế dùng các hình nền động và có độ sáng cao, tắt tính năng tự động cập nhật, sạc pin đúng cách,... cũng sẽ giúp tiết kiệm pin cho các thiết bị di động Android.
Video thực hiện các thiết lập giúp tăng thời lượng pin cho smartphone Android:
Hải Phong (theo CNET)
Thứ Năm, 6 tháng 3, 2014
Nhạc vàng | Zing Radio
Nhạc vàng là dòng Tân nhạc Việt Nam Việt Nam ra đời từ thập niên 1960 với lời ca trữ tình bình dân được viết trên những giai điệu nhẹ nhàng (boléro, rumba, ballade...). Người Việt trong nước có khi hiểu nhạc vàng là "nhạc sến", loại nhạc của Miền Nam với lời ca giản dị, câu nhạc dễ nghe, chất chứa nỗi niềm của một con người bình thường.
Tuyển Tập Các Bài Hát Hay Nhất Của Giao Linh
Tên thật: Đỗ Thị Sinh
Ngày sinh: 08/09 - Quốc gia: Việt Nam
Công ty đại diện: Ca sĩ Tự Do
Là một người yêu mến nghệ thuật bẩm sinh Giao Linh đã học nhạc ngay từ khi còn rất nhỏ. Mặc dù cha cô không đồng ý nhưng mẹ cô vẫn lén mời thầy về nhà dạy nhạc cho Giao Linh. Năm lên 9 tuổi, cô vào trường tiểu học Nguyễn Bá Tòng. Năm 1966, cô thắng huy chương vàng trong cuộc thi Kim Hoàng tại Air VietNam.
Những năm sau đó, dưới sự hướng dẫn của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, cô dự một cuộc thi tại nhà hát Quốc Thanh. Cô đã được giới thiệu như một ca sĩ và nhận được rất nhiều tán thưởng từ phía khán thính giả khiến cô ngỡ rằng họ giận dữ la hét. Giao Linh được mô tả là một ca sĩ với một tài nghệ tuyệt vời.
Cô xuất hiện lần đầu tiên trên đài truyền hình năm 1969. Lần xuất hiện này mang đến cho cô mệnh danh "Nữ Hoàng Sầu Muộn" bởi vì giọng hát trầm buồn và những nhạc phẩm cô trình bày. Giao Linh làm cho một số nhạc phẩm nổi tiếng như Lòng Mẹ, Mùa Sao Sáng, Tiếng Xưa, Màu Tím Pensee.
Năm 2003, sau gần 2 năm liên tục đi về giữa Việt Nam và Hoa Kỳ để biểu diễn, sau cùng Giao Linh đã chọn quê hương là nơi biểu diễn và kinh doanh. Hiện cô mở một quán phở và bánh cuốn do đầu bếp ở Canada nấu, tại gần CLB Lan Anh, đây cũng là một niềm vui của ca sĩ một thời vang bóng tại SaiGon này.
Mai lỡ hai mình xa nhau/ Chế Linh- Anh Thơ
Ông hoàng nhạc sến "Chế Linh đã cùng "Nữ hoàng dòng nhạc dân gian" Anh Thơ vào phòng thu thu âm ca khúc "Mai lỡ mình xa nhau" trong dịp Chế Linh về Việt Nam biểu diễn tháng 02/ 2014 ( lúc này ca sĩ Chế Linh đã 73 tuổi).
Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014
Minh Vương : 50 năm trạng nguyên vọng cổ
Cách đây tròn 50 năm, Ban cổ nhạc Trường Giang của thầy đờn Út Trong đã đứng ra tổ chức cuộc thi ca vọng cổ mang tên “Khôi nguyên vọng cổ”. Trong vòng chung kết diễn ra tại rạp hát Quốc Thanh (Sài Gòn), thí sinh Nguyễn Văn Vưng đoạt giải nhất, Diệu Nga đạt giải nhì và Xuân Lan giải ba.
Nghe:
Nói nôm na thì giải nhất tức là “Trạng nguyên” của Khôi nguyên vọng cổ năm 1964. Vị trạng nguyên năm đó chẳng ai xa lạ mà chính là giọng ca trứ danh Minh Vương của làng tài tử-cải lương Nam Bộ. Nghệ sỹ Minh Vương tên thật là Nguyễn Văn Vưng, sinh năm 1950 tại Cần Giuộc-Long An. Năm lên 10 tuổi, Vưng theo cha mẹ lên Sài Gòn sinh sống ở khu vực cầu Chữ Y.
Hồi những năm 1950-1960, cải lương ở thời cực thịnh. Làng giải trí hầu như bị cải lương thống trị với rất nhiều đoàn hát từ lớn tới nhỏ, hoạt động từ trong Nam ra ngoài Bắc. Những đại ban như Kim Chưởng, Kim Chung, Thanh Minh-Thanh Nga, Dạ Lý Hương…đã đưa lên bầu trời nghệ thuật cải lương không biết bao nhiêu ngôi sao sáng.
Một bước chiếm bảng vàng
Trong bối cảnh đó, nhiều “lò” dạy ca cổ nhạc cũng nổi lên. Những lò này do các tay đờn cổ nhạc có tiếng tự dựng, qua quen biết hoặc nhờ tiếng tăm mà nhiều người đến học. Các lò của những danh cầm như Văn Vĩ, Út Trong hay Bảy Trạch đều thuộc hàng trứ danh.
Lò của danh cầm Bảy Trạch nằm gần cầu Chữ Y, nơi gia đình cậu bé Nguyễn Văn Vưng trú ngụ. Mỗi ngày khi đi hớt lăng quăng về nuôi cá lia thia, Vưng bị “mê hoặc” bởi tiếng của lò Bảy Trạch. Vào năm 1963, tức năm Vưng được 13 tuổi, Vưng đã chính thức được nhận vào lò Bảy Trạch học ca miễn phí.
Vào thời điểm đó, như tổ nghiệp đã cố tình sắp đặt để ban tặng cho sân khấu cải lương một giọng ca mới lạ, nên mới khiến xui cho nhóm của danh cầm trứ danh gốc Bến Tre Út Trong thành lập một nhóm đờn ca cổ nhạc tên Trường Giang trên đài phát thanh Sài Gòn. Rồi vào cuối năm 1964, nhóm Trường Giang đứng ra “chủ xị” tổ chức một cuộc thi vọng cổ mang tên “Khôi nguyên vọng cổ”. Có lẽ khi ấy, danh hiệu “Vua vọng cổ” đang nằm trong tay Út Trà Ôn, nên cuộc thi chỉ dám gọi là “Khôi nguyên”, tức người đỗ đạt cao nhất thì cũng chỉ là “Trạng nguyên” mà thôi.
Khôi nguyên vọng cổ năm 1964 thu hút hàng ngàn thí sinh tham dự đến từ đủ các lò cổ nhạc ở khắp mọi nơi. Vòng chung kết diễn ra tại rạp hát Quốc Thanh, Sài Gòn. Ba người đỗ giải đầu xếp vị trí như sau: Nguyễn Văn Vưng giải nhất, Diệu Nga giải nhì, và Xuân Lan giải ba. Nói nôm na, thì Vưng đoạt danh hiệu “Trạng nguyên”, Diệu Nga đoạt danh hiệu “Bảng nhãn”, và Xuân Lan đoạt danh hiệu “Thám hoa”.
Ba vị khôi nguyên này lập tức được các đoàn hát “bắt đi”: Diệu Nga được mời về đoàn Thanh Minh-Thanh Nga, Xuân Lan về đoàn Kiên Giang, còn Nguyễn Văn Vưng thì được đại ban Kim Chung mời ký hợp đồng giá trị cả trăm ngàn. Ông bầu Long của đại bang Kim Chung đã đặt nghệ danh Minh Vương cho Vưng, và con đường gạo chợ nước sông của Minh Vương bắt đầu từ giải “Khôi nguyên vọng cổ” năm ấy.
Những vai diễn để đời
Khôi nguyên vọng cổ là một một cuộc thi tuyển chọn giọng ca chứ không phải là tuyển chọn nghệ sỹ chuyên nghiệp ca hay diễn giỏi như Giải Thanh Tâm của nhóm ký giả Trần Tấn Quốc. Bởi vậy, những người đoạt Khôi nguyên vọng cổ không thể nào ca không hay, nhưng để trở thành một nghệ sỹ cải lương chuyên nghiệp thành thạo cả ca lẫn diễn thì đòi hỏi còn phải trau dồi thực tiễn sân khấu rất nhiều.
Cũng như hầu hết các nghệ sỹ cải lương thế hệ vàng, Minh Vương bước dần trên con đường tiến tới đỉnh cao nghệ thuật. Sau khi đoạt giải Khôi nguyên vọng cổ, Minh Vương được đưa về một đoàn trong đại ban Kim Chung đóng kép nhì cho cặp đào kép Minh Phụng-Lệ thủy. Hồi ấy, khi Minh Vương mới chập chững vào nghề, thì Minh Phụng-Lệ Thủy đã là cặp đào kép chánh nổi tiếng vang dội được báo chí gọi là “Cặp bão biển đang lên”. Nói riêng về kép thì khi ấy, Minh Phụng nổi tiếng là kép đẹp ca hay. Rồi bây giờ Minh Vương xuất hiện, Kim Chung có thêm một kép đẹp ca hay nữa. Bởi dù muốn dù không, thì thế mạnh của Kim Chung hồi đó vẫn là ca.Thời đó, khi quảng cáo, thì Kim Chung thường câu khách bằng liên danh kép đẹp Minh Phụng-Minh Vương.
Ở đoàn Kim Chung, Minh Vương vất vả trau dồi một thời gian dài, và mãi đến đầu những năm 1970, Minh Vương mới thật sự trở thành anh kép chánh, tạo được chỗ đứng riêng trên sân khấu cải lương. Các hãng dĩa thi nhau mời Minh Vương thu âm. Hãng dĩa Việt Nam của bà Sáu Liễu mời Minh Vương thu âm nhiều vai tuồng mà các bậc nghệ sỹ tiền bối của Minh Vương đã thành công trên sân khấu trước đó.
Từ đó, giọng ca Minh Vương thật sự trở thành một làn gió mới ru hồn khán giả, để đến hiện tại người mộ điệu vẫn còn có thể thưởng thức giọng ca Minh Vương trong một loạt các tuồng nổi tiếng: Máu nhuộm sân chùa, Mùa xuân ngủ trong đêm, Đêm lạnh chùa hoang, Kiếp nào có yêu nhau, Tâm sự loài chim biển, Người tình trên chiến trận, Tô Ánh Nguyệt, Đời Cô Lựu, Rạng ngọc Côn Sơn và Đường gươm Nguyên Bá…
Nói về hai vở Tô Ánh Nguyệt và Đời Cô Lựu, thì đây là hai vở xã hội hiện thực kinh điển của soạn giả Trần Hữu Trang, được viết và trình diễn mấy chục năm trước khi Minh Vương ra đời. Các thế hệ bậc thầy của Minh Vương như Tư Sạn, Tám Thưa, Năm Nghĩa, Phùng Há, Năm Châu, Út Trà Ôn … đã để lại cái bóng quá lớn trong các vở này. Bởi vậy, muốn làm mới và để cho khán giả chấp nhận quả thật không phải là chuyện dễ.
Tuy nhiên, các nghệ sỹ thế hệ sau đã không làm thất vọng người đi trước khi đã tạo được ấn tượng mới trong hai vở tuồng này với nhiều gương mặt trở thành bất tử như: Diệp Lang, Thành Được, Ngọc Giàu, Hồng Nga, Thanh Tòng, Minh Vương, Lệ Thủy, Bạch Tuyết …
Riêng đối với hai cô đào Lệ Thủy và Bạch Tuyết, thì mỗi người tên tuổi gắn liền với một tuồng: Bạch Tuyết với Đời Cô Lựu, Lệ Thủy với Tô Ánh Nguyệt. Ngọc Giàu thành công rực rỡ trong Đời Cô Lựu với vai Bà Hai Hương và Cô Bảy Cán Vá, nhưng lại không tham gia Tô Ánh Nguyệt. Diệp Lang thì để đời trong cả hai tuồng với vai Ông Hương Cả (Ba của Nguyệt) và Hội Đồng Thăng (Chồng sau của Cô Lựu). Minh Vương, trong vai trò là kép chánh trẻ, cũng đã để đời trong cả hai tuồng với vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt, và Võ Minh Luân trong Đời Cô Lựu.
Minh Vương biết khai thác tối đa thế mạnh về giọng ca, và hỗ trợ hết sức đắc lực cho các vai diễn. Chẳng hạn như trong vở cải lương Đường gươm Nguyên Bá, Minh Vương đã ru hồn khán giả bằng một lối vô vọng cổ điêu luyện mà chỉ có những giọng ca khỏe, cao, có lực, và trữ tình cộng với một kỹ thuật điều hơi thượng thừa thì mới dám « đùa » . Đó là khi dứt bản Lý Con Sáo : "Càng buông lời lòng thêm xót xa, một mũi gươm nát tan đời hoa...", Minh Vương lập tức chồng hơi vô vọng cổ: "Nhưng Nguyên Bá tôi đã cho mình đáng chết khi dùng đường gươm oanh liệt để tạo nên tì vết cho một đóa… hoa… hồng..." . Thật ngọt, thật đẹp, thật sang trọng, tạo được một phong thái ung dung đĩnh đạc nhưng có chút đa tình của viên tướng trẻ Nguyên Bá lừng danh.
Chúng ta cũng có thể tìm thấy lối chồng hơi độc đáo của Minh Vương trong vở Đời cô Lựu với vai Võ Minh Luân. Ở màn gặp lại cha là Võ Minh Thành sau 19 năm gia đình ly tán, mẹ lấy ông hội đồng, còn cha thì bị lưu đày ngoài Côn Đảo. Tâm trạng một chàng thanh niên nhà quê ngày ngày đi câu cá nuôi mẹ già (Bà Hai Hương) vừa biết về quá khứ giông bão của gia đình đã được Minh Vương thể hiện trọn vẹn. Đến mức mà, thế hệ sau, dù có nhiều nghệ sỹ được mệnh danh là ngôi sao đóng, nhưng hễ nhắc đến Võ Minh Luân, là khán giả nghĩ trước tiên đến Minh Vương.
Và cũng bởi thế mà, dù ở tuổi trên lục tuần, Minh Vương vẫn luôn được yêu cầu diễn đi diễn lại vai chàng thanh niên 19 mà người xem không thấy chán. Trong vai diễn này, ở màn gặp lại cha, Võ Minh Luân-Minh Vương đã bất ngờ chồng hơi vô bản Văn Thiên Tường lớp dựng dây xề kép rất độc đáo: "Ba... hỡi ba..ơi.", cao vút, vừa ngọt, như là tiếng kêu xé lòng, đã khiến cho khán giả nhớ hoài cách ca diễn thượng thừa đó của Minh Vương.
Tuy nhiên, hai vai để đời mà ở đó hội tụ tất cả tinh hoa nghệ thuật ca diễn của Minh Vương là vai Nguyễn Trãi trong Rạng ngọc Côn Sơn, và vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt. Rạng Ngọc Côn Sơn là một vở lịch sử Việt Nam ca ngợi tài đức của Nguyễn Trãi, người đã góp công quan trọng trong chiến thắng chống quân Minh để dựng nên nhà Hậu Lê, và cũng là người đã phải chết oan vì nhà Hậu Lê. Bối cảnh vở tuồng đề cập đến giai đoạn Nguyễn Trãi đã từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, tức lúc không còn trẻ nữa. Bởi vậy, kép đóng vai này đòi hỏi phải có giọng lão, và có một trình độ ca diễn thượng thừa mới có thể lột tả được thần thái của một nhân vật lịch sử văn hóa lớn như Nguyễn Trãi.
Hồi đầu những năm 1980, khi dựng Rạng ngọc Côn Sơn, đạo diễn khi ấy định nhờ đến « sư phụ » Út Trà Ôn vào vai Nguyễn Trãi. Có thể nói, đây là một dự định rất phù hợp, vì Út Trà Ôn thừa khả năng để đảm đương vai này. Minh Vương khi ấy mới độ 30 tuổi, còn là một kép trẻ đẹp. Giọng ca Minh Vương lại là « giọng kép trẻ » chứ không phải giọng lão. Thế nhưng, Minh Vương đã bạo gan thử sức, và được sự tán đồng của đạo diễn và của bậc tiền bối Út Trà Ôn. Thực tế đã chứng minh, Minh Vương không phụ sự kỳ vọng của các bậc tiền bối khi đã làm bất tử vai Nguyễn Trãi trong cách diễn lẫn cách ca « rất Minh Vương ».
Trong cách diễn, chàng kép trẻ tuổi 30 diễn vai một vị quan văn tuổi độ 60 rất thành công : không quá lụ khụ, nhưng động tác đủ chậm để thể hiện tuổi tác, đủ thanh thoát để thể hiện thần thái của một bậc ẩn sĩ. Minh Vương đã sử dụng hiệu quả giọng ca cao, trữ tình để thể hiện tâm trạng bi hùng của một vị công thần khai quốc trước vận mệnh của non sông, trước những đổi thay của thời cuộc. Minh Vương lại có tài cá nhấn nhá độc đáo, khiến các câu ca lời thoại mặc sức dễ dàng đi vào lòng người.
Đến với vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt, Minh Vương đã tạo ra một ranh giới cho vai diễn này mà thế hệ sau chưa thấy có ai bước tới. Trong Tô Ánh Nguyệt, ở những màn đầu Minh Vương thể hiện một vai Minh trẻ trung, hồn nhiên trong tình yêu đôi lứa. Nhưng, đến những màn 18 năm sau khi đã cưới vợ theo lệnh mẹ cha và phải lìa xa Nguyệt, Minh Vương đã xuất thần khi thể hiện xuất sắc hình ảnh một người đàn ông trung niên bị giày vò trong nỗi hối hận triền miên nên trở nên già trước tuổi, đến nỗi phải mắc bệnh trầm kha.
Cái tâm trạng khổ đau, cái tình yêu trước sau như một dành cho Nguyệt, nỗi niềm bất mãn với những đổi thay bất chợt của cuộc đời, đã được giọng ca và cách diễn của Minh Vương thể hiện một cách « không thể nào hay hơn được nữa ». Và từ đó, hễ nhắc đến Tô Ánh Nguyệt là người mộ điệu nghĩ ngay đến Minh Vương-Lệ Thủy, và hễ gặp Lệ Thủy hát Tô Ánh Nguyệt mà không với Minh Vương là người xem cảm thấy thiếu một cái gì đó không thể giải thích được. Hai vai diễn này đã góp phần quan trọng cho Lệ Thủy và Minh Vương liên tục được xem là cặp đào kép cải lương đẹp nhất và ăn ý nhất.
Ca như dòng suối chảy
Bàn riêng về giọng ca, Minh Vương là một trong những giọng ca bậc thầy của làng tài tử-cải lương. Ở đây nhắc đến chữ « tài tử » là bởi vì dù là nghệ sỹ cải lương chuyên nghiệp, nhưng giọng ca Minh Vương vẫn giữ được một lượng chân phương vừa đủ của tài tử, một lề lối ca đúng tinh thần của các bài bản cổ nhạc. Tức là ca điệu oán thì ra oán, mà điệu nam thì ra nam, chứ không chỉ có sự đúng nhịp mà thôi. Trong làng sân khấu cải lương, không có nhiều nghệ sỹ, dù là nổi tiếng, làm được chuyện đó. Chẳng những vậy mà có nghệ sỹ còn cách tân quá đà để khi ca thì ngày càng mất dần nét chân phương quý báu của tài tử-cải lương.
Minh Vương xuất thân từ lò ca tài tử của danh cầm Bảy Trạch. Mấy tay đờn cổ nhạc thì phải biết, họ rất nghiêm khắc về cách ca sao cho đúng tinh thần của mỗi bài bản : như ca Nam Xuân thì phải hùng hồn, mà ca Nam Ai thì phải làm não lòng người khác… Minh Vương học ca được một năm và sau đó đi thi đoạt luôn giải nhất Khôi nguyên vọng cổ. Đây không phải là một điều dễ dàng, bởi khi ấy có biết bao nhiêu lò luyện, biết bao nhiêu giọng ca. Nếu Minh Vương không thực sự là một giọng ca có bản lĩnh riêng, thì không thể nào đứng đầu « bảng vàng » chỉ sau một năm học ca như vậy.
Khôi nguyên vọng cổ đã tạo đà cho Minh Vương leo lên đỉnh cao của nghệ thuật ca diễn. Nên nhớ rằng, đại bang Kim Chung hồi trước có thế mạnh là có đào kép đẹp và những giọng ca mới lạ. Bởi vậy, về với Kim Chung là Minh Vương đã về đúng nơi cần đến để có điều kiện trau dồi, học hỏi nâng cao chất lượng giọng ca.
Khi Minh Vương còn đang mài mò tìm lối riêng cho giọng ca của mình, thì phía trước Minh Vương đã có hai đàn anh nổi tiếng vang dội thời đó là Minh Cảnh và Minh Phụng. Nhờ đó, mà cái tên Minh Vương thường được gọi kèm chung với hai đàn anh là « Tam Minh », tức « Minh Cảnh-Minh Phụng-Minh Vương ». Thế nhưng, đây cũng là một trở ngại lớn đối với Minh Vương vì hai ngôi sao Minh Cảnh và Minh Phụng quá sáng chói và Minh Vương khó có cơ hội sáng lên cho được.
Thời gian trôi qua, Minh Vương đã dần chứng minh được bản lĩnh khi giọng ca Minh Vương đã « đủ cân đủ lượng » đứng độc lập ở một góc trời riêng. Có một số người xếp Minh Vương và Minh Phụng vào trường phái ca của Minh Cảnh. Thế nhưng, nghe kỹ lại, đây là ba chất giọng và ba kiểu ca rất riêng biệt.
Trong thập niên 1960, Minh Cảnh được xem là một giọng ca « lạ », cách tân với lối ca lạng bẻ, kiểu cọ, khác biệt với các bậc tiền bối ca lối thiên về chân phương như Út Trà Ôn hay Hữu Phước. Giọng ca Minh Vương có giống với Minh Cảnh là nghe rất nhẹ, rất mướt. Còn lại, thì Minh Vương ca thiên về lối chân phương của Út Trà Ôn. Tức là ca không cầu kỳ lạng bẻ mà thánh thoát nhẹ nhàng, bình dị, giữ được nét mộc mạc của đờn ca tài tử. Minh Vương có làn hơi khỏe khoắn, trong, âm vực rộng lên thật cao, xuống thật thấp vẫn tròn vành rõ chữ, có thể ca nhiều tông khác nhau mà không bị lạc giọng, không bị tù hơi. Giọng Minh Vương thanh thoát, chân phương, bình dị, có chút mùi mẫn, trữ tình, đầy nam tính và không bi lụy.
Nói về nhịp nhàng, Minh Vương là một trong những nghệ sỹ bậc thầy về nhịp. Càng về sau, khi tài năng càng phát triển, Minh Vương ca không theo khuôn nữa, mà ca theo lối rải nhịp đều ở các câu như Út Trà Ôn. Minh Vương lại thường để nhiều chữ ở cuối câu rồi « ca lùa » rất hay. Cách ca này rất khó, bởi phải chắc nhịp lắm mới dám ca, nếu không sẽ tạo cảm giác vụng về ngay. Nghe Minh Vương ca, người nghe thật khó nhận biết đang ở nhịp nào, nhưng khi Minh Vương xuống nhịp cuối câu thì « y như để ».
Tuy nhiên, nét « đắt giá » nhất ở giọng ca Minh Vương, đó là ca rất trọng sự nhấn nhá theo phím đàn. Nghe Minh Vương ca, người nghe có cảm giác giọng ca và tiếng đàn hòa quyện vào nhau, để có khi nghe tiếng đờn nâng nhẹ lời ca, và để có khi nghe lời ca nhảy nhót tung tăng trên phím đàn. Cách nhấn chữ của Minh Vương theo phím đàn nghe rất rõ chữ đàn, và nghe rất « đã tai », giống như đang đứng xa xa vừa ngắm dòng suối vừa nghe tiếng nước suối chảy vậy. Phải có một tài năng ca thượng thừa mới có thể ca được như vậy.
Giọng ca Minh Vương đã ghi dấu ấn qua vô số bài vọng cổ thuộc đủ thể loại. Minh Vương ca vọng cổ theo lối tự sự xưa rất hay, và người mộ điệu hiện tại vẫn còn « mê mẫn » với rất nhiều bài kinh điển như: Lòng Dạ Đàn Bà, Lá Bàng Rơi, Gánh Nước Đêm Trăng, Đội gạo đường xa, Người đánh đàn trên Bắc Mỹ Thuận …
Những bài này thường dài đến 6 câu, viết theo lối kể chuyện tâm tình, nên rất kén giọng ca. Ca làm sao để không cho thấy buồn quá, không cho thấy dài dòng quá, để tránh tạo cảm giác nhàm chán cho người nghe. Với giọng ca Minh Vương, người mộ điệu nghe những bài trên, càng nghe thì càng thấy « đã ».
Còn đối với tân cổ giao duyên, Minh Vương đã thể hiện thành công vô số bài với nhiều nữ nghệ sỹ đủ các thế hệ. Giọng ca Minh Vương có nét tươi trẻ, nên ca tân cổ giao duyên là một lợi thế. Có thể kể một số bài nổi nhất như : Trương Chi Mỵ Nương, Người em Vĩ Dạ, Đám cưới trên đường quê, Chuyến tàu hoàng hôn, Màu tím hoa sim, Thân phận, Mimosa, Áo em chưa mặc một lần, Cô bán sầu riêng …
Thế nhưng, đặc biệt nhất là bài tân cổ giao duyên Bánh Bông Lan của soạn giả Loan Thảo. Đây là một bài ca theo kiểu đối đáp giữa một chàng trai đang theo đuổi một cô gái làm nghề bán bánh bông lan với lời văn rất dễ thương, nhưng rất khó ca vì hai người phải vừa ca vừa nói liên tục trong lòng bản. Bài hát này đã trở nên gắn liền với Minh Vương-Lê Thủy, tức nghe người khác ca người mộ điệu sẽ lập tức cảm thấy không được « đã ».
Xứng danh « Trạng nguyên vọng cổ »
Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày đoạt Khôi nguyên vọng cổ, giọng ca Minh Vương vẫn trẻ trung, mượt mà, điêu luyện, và vẫn còn ru lòng người mộ điệu cải lương, kể cả thế hệ trẻ. Lối ca giữ được cái hồn mộc mạc và tinh thần bài bản của đờn ca tài tử là rất đáng quý ở Minh Vương. Giọng ca Minh Vương tựa như một dòng suối nhỏ : trong trẻo, không ồn ào mà âm thanh phát ra rất rõ, đủ để tưới mát những tấm lòng, đủ để ru hồn bằng những thanh âm nhấn nhá du dương, đủ để khiến người nghe được thả hồn theo lời ca tiếng đờn cổ nhạc. Nửa thế kỷ đã trôi qua, đến hiện tại, có thể nói rằng, Minh Vương luôn xứng danh là « trạng nguyên vọng cổ ».
Tạp chí RFI
Cải Lương
Nghe:
Nói nôm na thì giải nhất tức là “Trạng nguyên” của Khôi nguyên vọng cổ năm 1964. Vị trạng nguyên năm đó chẳng ai xa lạ mà chính là giọng ca trứ danh Minh Vương của làng tài tử-cải lương Nam Bộ. Nghệ sỹ Minh Vương tên thật là Nguyễn Văn Vưng, sinh năm 1950 tại Cần Giuộc-Long An. Năm lên 10 tuổi, Vưng theo cha mẹ lên Sài Gòn sinh sống ở khu vực cầu Chữ Y.
Hồi những năm 1950-1960, cải lương ở thời cực thịnh. Làng giải trí hầu như bị cải lương thống trị với rất nhiều đoàn hát từ lớn tới nhỏ, hoạt động từ trong Nam ra ngoài Bắc. Những đại ban như Kim Chưởng, Kim Chung, Thanh Minh-Thanh Nga, Dạ Lý Hương…đã đưa lên bầu trời nghệ thuật cải lương không biết bao nhiêu ngôi sao sáng.
Một bước chiếm bảng vàng
Trong bối cảnh đó, nhiều “lò” dạy ca cổ nhạc cũng nổi lên. Những lò này do các tay đờn cổ nhạc có tiếng tự dựng, qua quen biết hoặc nhờ tiếng tăm mà nhiều người đến học. Các lò của những danh cầm như Văn Vĩ, Út Trong hay Bảy Trạch đều thuộc hàng trứ danh.
Lò của danh cầm Bảy Trạch nằm gần cầu Chữ Y, nơi gia đình cậu bé Nguyễn Văn Vưng trú ngụ. Mỗi ngày khi đi hớt lăng quăng về nuôi cá lia thia, Vưng bị “mê hoặc” bởi tiếng của lò Bảy Trạch. Vào năm 1963, tức năm Vưng được 13 tuổi, Vưng đã chính thức được nhận vào lò Bảy Trạch học ca miễn phí.
Vào thời điểm đó, như tổ nghiệp đã cố tình sắp đặt để ban tặng cho sân khấu cải lương một giọng ca mới lạ, nên mới khiến xui cho nhóm của danh cầm trứ danh gốc Bến Tre Út Trong thành lập một nhóm đờn ca cổ nhạc tên Trường Giang trên đài phát thanh Sài Gòn. Rồi vào cuối năm 1964, nhóm Trường Giang đứng ra “chủ xị” tổ chức một cuộc thi vọng cổ mang tên “Khôi nguyên vọng cổ”. Có lẽ khi ấy, danh hiệu “Vua vọng cổ” đang nằm trong tay Út Trà Ôn, nên cuộc thi chỉ dám gọi là “Khôi nguyên”, tức người đỗ đạt cao nhất thì cũng chỉ là “Trạng nguyên” mà thôi.
Khôi nguyên vọng cổ năm 1964 thu hút hàng ngàn thí sinh tham dự đến từ đủ các lò cổ nhạc ở khắp mọi nơi. Vòng chung kết diễn ra tại rạp hát Quốc Thanh, Sài Gòn. Ba người đỗ giải đầu xếp vị trí như sau: Nguyễn Văn Vưng giải nhất, Diệu Nga giải nhì, và Xuân Lan giải ba. Nói nôm na, thì Vưng đoạt danh hiệu “Trạng nguyên”, Diệu Nga đoạt danh hiệu “Bảng nhãn”, và Xuân Lan đoạt danh hiệu “Thám hoa”.
Ba vị khôi nguyên này lập tức được các đoàn hát “bắt đi”: Diệu Nga được mời về đoàn Thanh Minh-Thanh Nga, Xuân Lan về đoàn Kiên Giang, còn Nguyễn Văn Vưng thì được đại ban Kim Chung mời ký hợp đồng giá trị cả trăm ngàn. Ông bầu Long của đại bang Kim Chung đã đặt nghệ danh Minh Vương cho Vưng, và con đường gạo chợ nước sông của Minh Vương bắt đầu từ giải “Khôi nguyên vọng cổ” năm ấy.
Những vai diễn để đời
Khôi nguyên vọng cổ là một một cuộc thi tuyển chọn giọng ca chứ không phải là tuyển chọn nghệ sỹ chuyên nghiệp ca hay diễn giỏi như Giải Thanh Tâm của nhóm ký giả Trần Tấn Quốc. Bởi vậy, những người đoạt Khôi nguyên vọng cổ không thể nào ca không hay, nhưng để trở thành một nghệ sỹ cải lương chuyên nghiệp thành thạo cả ca lẫn diễn thì đòi hỏi còn phải trau dồi thực tiễn sân khấu rất nhiều.
Cũng như hầu hết các nghệ sỹ cải lương thế hệ vàng, Minh Vương bước dần trên con đường tiến tới đỉnh cao nghệ thuật. Sau khi đoạt giải Khôi nguyên vọng cổ, Minh Vương được đưa về một đoàn trong đại ban Kim Chung đóng kép nhì cho cặp đào kép Minh Phụng-Lệ thủy. Hồi ấy, khi Minh Vương mới chập chững vào nghề, thì Minh Phụng-Lệ Thủy đã là cặp đào kép chánh nổi tiếng vang dội được báo chí gọi là “Cặp bão biển đang lên”. Nói riêng về kép thì khi ấy, Minh Phụng nổi tiếng là kép đẹp ca hay. Rồi bây giờ Minh Vương xuất hiện, Kim Chung có thêm một kép đẹp ca hay nữa. Bởi dù muốn dù không, thì thế mạnh của Kim Chung hồi đó vẫn là ca.Thời đó, khi quảng cáo, thì Kim Chung thường câu khách bằng liên danh kép đẹp Minh Phụng-Minh Vương.
Ở đoàn Kim Chung, Minh Vương vất vả trau dồi một thời gian dài, và mãi đến đầu những năm 1970, Minh Vương mới thật sự trở thành anh kép chánh, tạo được chỗ đứng riêng trên sân khấu cải lương. Các hãng dĩa thi nhau mời Minh Vương thu âm. Hãng dĩa Việt Nam của bà Sáu Liễu mời Minh Vương thu âm nhiều vai tuồng mà các bậc nghệ sỹ tiền bối của Minh Vương đã thành công trên sân khấu trước đó.
Từ đó, giọng ca Minh Vương thật sự trở thành một làn gió mới ru hồn khán giả, để đến hiện tại người mộ điệu vẫn còn có thể thưởng thức giọng ca Minh Vương trong một loạt các tuồng nổi tiếng: Máu nhuộm sân chùa, Mùa xuân ngủ trong đêm, Đêm lạnh chùa hoang, Kiếp nào có yêu nhau, Tâm sự loài chim biển, Người tình trên chiến trận, Tô Ánh Nguyệt, Đời Cô Lựu, Rạng ngọc Côn Sơn và Đường gươm Nguyên Bá…
Nói về hai vở Tô Ánh Nguyệt và Đời Cô Lựu, thì đây là hai vở xã hội hiện thực kinh điển của soạn giả Trần Hữu Trang, được viết và trình diễn mấy chục năm trước khi Minh Vương ra đời. Các thế hệ bậc thầy của Minh Vương như Tư Sạn, Tám Thưa, Năm Nghĩa, Phùng Há, Năm Châu, Út Trà Ôn … đã để lại cái bóng quá lớn trong các vở này. Bởi vậy, muốn làm mới và để cho khán giả chấp nhận quả thật không phải là chuyện dễ.
Tuy nhiên, các nghệ sỹ thế hệ sau đã không làm thất vọng người đi trước khi đã tạo được ấn tượng mới trong hai vở tuồng này với nhiều gương mặt trở thành bất tử như: Diệp Lang, Thành Được, Ngọc Giàu, Hồng Nga, Thanh Tòng, Minh Vương, Lệ Thủy, Bạch Tuyết …
Riêng đối với hai cô đào Lệ Thủy và Bạch Tuyết, thì mỗi người tên tuổi gắn liền với một tuồng: Bạch Tuyết với Đời Cô Lựu, Lệ Thủy với Tô Ánh Nguyệt. Ngọc Giàu thành công rực rỡ trong Đời Cô Lựu với vai Bà Hai Hương và Cô Bảy Cán Vá, nhưng lại không tham gia Tô Ánh Nguyệt. Diệp Lang thì để đời trong cả hai tuồng với vai Ông Hương Cả (Ba của Nguyệt) và Hội Đồng Thăng (Chồng sau của Cô Lựu). Minh Vương, trong vai trò là kép chánh trẻ, cũng đã để đời trong cả hai tuồng với vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt, và Võ Minh Luân trong Đời Cô Lựu.
Minh Vương biết khai thác tối đa thế mạnh về giọng ca, và hỗ trợ hết sức đắc lực cho các vai diễn. Chẳng hạn như trong vở cải lương Đường gươm Nguyên Bá, Minh Vương đã ru hồn khán giả bằng một lối vô vọng cổ điêu luyện mà chỉ có những giọng ca khỏe, cao, có lực, và trữ tình cộng với một kỹ thuật điều hơi thượng thừa thì mới dám « đùa » . Đó là khi dứt bản Lý Con Sáo : "Càng buông lời lòng thêm xót xa, một mũi gươm nát tan đời hoa...", Minh Vương lập tức chồng hơi vô vọng cổ: "Nhưng Nguyên Bá tôi đã cho mình đáng chết khi dùng đường gươm oanh liệt để tạo nên tì vết cho một đóa… hoa… hồng..." . Thật ngọt, thật đẹp, thật sang trọng, tạo được một phong thái ung dung đĩnh đạc nhưng có chút đa tình của viên tướng trẻ Nguyên Bá lừng danh.
Chúng ta cũng có thể tìm thấy lối chồng hơi độc đáo của Minh Vương trong vở Đời cô Lựu với vai Võ Minh Luân. Ở màn gặp lại cha là Võ Minh Thành sau 19 năm gia đình ly tán, mẹ lấy ông hội đồng, còn cha thì bị lưu đày ngoài Côn Đảo. Tâm trạng một chàng thanh niên nhà quê ngày ngày đi câu cá nuôi mẹ già (Bà Hai Hương) vừa biết về quá khứ giông bão của gia đình đã được Minh Vương thể hiện trọn vẹn. Đến mức mà, thế hệ sau, dù có nhiều nghệ sỹ được mệnh danh là ngôi sao đóng, nhưng hễ nhắc đến Võ Minh Luân, là khán giả nghĩ trước tiên đến Minh Vương.
Và cũng bởi thế mà, dù ở tuổi trên lục tuần, Minh Vương vẫn luôn được yêu cầu diễn đi diễn lại vai chàng thanh niên 19 mà người xem không thấy chán. Trong vai diễn này, ở màn gặp lại cha, Võ Minh Luân-Minh Vương đã bất ngờ chồng hơi vô bản Văn Thiên Tường lớp dựng dây xề kép rất độc đáo: "Ba... hỡi ba..ơi.", cao vút, vừa ngọt, như là tiếng kêu xé lòng, đã khiến cho khán giả nhớ hoài cách ca diễn thượng thừa đó của Minh Vương.
Tuy nhiên, hai vai để đời mà ở đó hội tụ tất cả tinh hoa nghệ thuật ca diễn của Minh Vương là vai Nguyễn Trãi trong Rạng ngọc Côn Sơn, và vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt. Rạng Ngọc Côn Sơn là một vở lịch sử Việt Nam ca ngợi tài đức của Nguyễn Trãi, người đã góp công quan trọng trong chiến thắng chống quân Minh để dựng nên nhà Hậu Lê, và cũng là người đã phải chết oan vì nhà Hậu Lê. Bối cảnh vở tuồng đề cập đến giai đoạn Nguyễn Trãi đã từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, tức lúc không còn trẻ nữa. Bởi vậy, kép đóng vai này đòi hỏi phải có giọng lão, và có một trình độ ca diễn thượng thừa mới có thể lột tả được thần thái của một nhân vật lịch sử văn hóa lớn như Nguyễn Trãi.
Hồi đầu những năm 1980, khi dựng Rạng ngọc Côn Sơn, đạo diễn khi ấy định nhờ đến « sư phụ » Út Trà Ôn vào vai Nguyễn Trãi. Có thể nói, đây là một dự định rất phù hợp, vì Út Trà Ôn thừa khả năng để đảm đương vai này. Minh Vương khi ấy mới độ 30 tuổi, còn là một kép trẻ đẹp. Giọng ca Minh Vương lại là « giọng kép trẻ » chứ không phải giọng lão. Thế nhưng, Minh Vương đã bạo gan thử sức, và được sự tán đồng của đạo diễn và của bậc tiền bối Út Trà Ôn. Thực tế đã chứng minh, Minh Vương không phụ sự kỳ vọng của các bậc tiền bối khi đã làm bất tử vai Nguyễn Trãi trong cách diễn lẫn cách ca « rất Minh Vương ».
Trong cách diễn, chàng kép trẻ tuổi 30 diễn vai một vị quan văn tuổi độ 60 rất thành công : không quá lụ khụ, nhưng động tác đủ chậm để thể hiện tuổi tác, đủ thanh thoát để thể hiện thần thái của một bậc ẩn sĩ. Minh Vương đã sử dụng hiệu quả giọng ca cao, trữ tình để thể hiện tâm trạng bi hùng của một vị công thần khai quốc trước vận mệnh của non sông, trước những đổi thay của thời cuộc. Minh Vương lại có tài cá nhấn nhá độc đáo, khiến các câu ca lời thoại mặc sức dễ dàng đi vào lòng người.
Đến với vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt, Minh Vương đã tạo ra một ranh giới cho vai diễn này mà thế hệ sau chưa thấy có ai bước tới. Trong Tô Ánh Nguyệt, ở những màn đầu Minh Vương thể hiện một vai Minh trẻ trung, hồn nhiên trong tình yêu đôi lứa. Nhưng, đến những màn 18 năm sau khi đã cưới vợ theo lệnh mẹ cha và phải lìa xa Nguyệt, Minh Vương đã xuất thần khi thể hiện xuất sắc hình ảnh một người đàn ông trung niên bị giày vò trong nỗi hối hận triền miên nên trở nên già trước tuổi, đến nỗi phải mắc bệnh trầm kha.
Cái tâm trạng khổ đau, cái tình yêu trước sau như một dành cho Nguyệt, nỗi niềm bất mãn với những đổi thay bất chợt của cuộc đời, đã được giọng ca và cách diễn của Minh Vương thể hiện một cách « không thể nào hay hơn được nữa ». Và từ đó, hễ nhắc đến Tô Ánh Nguyệt là người mộ điệu nghĩ ngay đến Minh Vương-Lệ Thủy, và hễ gặp Lệ Thủy hát Tô Ánh Nguyệt mà không với Minh Vương là người xem cảm thấy thiếu một cái gì đó không thể giải thích được. Hai vai diễn này đã góp phần quan trọng cho Lệ Thủy và Minh Vương liên tục được xem là cặp đào kép cải lương đẹp nhất và ăn ý nhất.
Ca như dòng suối chảy
Bàn riêng về giọng ca, Minh Vương là một trong những giọng ca bậc thầy của làng tài tử-cải lương. Ở đây nhắc đến chữ « tài tử » là bởi vì dù là nghệ sỹ cải lương chuyên nghiệp, nhưng giọng ca Minh Vương vẫn giữ được một lượng chân phương vừa đủ của tài tử, một lề lối ca đúng tinh thần của các bài bản cổ nhạc. Tức là ca điệu oán thì ra oán, mà điệu nam thì ra nam, chứ không chỉ có sự đúng nhịp mà thôi. Trong làng sân khấu cải lương, không có nhiều nghệ sỹ, dù là nổi tiếng, làm được chuyện đó. Chẳng những vậy mà có nghệ sỹ còn cách tân quá đà để khi ca thì ngày càng mất dần nét chân phương quý báu của tài tử-cải lương.
Minh Vương xuất thân từ lò ca tài tử của danh cầm Bảy Trạch. Mấy tay đờn cổ nhạc thì phải biết, họ rất nghiêm khắc về cách ca sao cho đúng tinh thần của mỗi bài bản : như ca Nam Xuân thì phải hùng hồn, mà ca Nam Ai thì phải làm não lòng người khác… Minh Vương học ca được một năm và sau đó đi thi đoạt luôn giải nhất Khôi nguyên vọng cổ. Đây không phải là một điều dễ dàng, bởi khi ấy có biết bao nhiêu lò luyện, biết bao nhiêu giọng ca. Nếu Minh Vương không thực sự là một giọng ca có bản lĩnh riêng, thì không thể nào đứng đầu « bảng vàng » chỉ sau một năm học ca như vậy.
Khôi nguyên vọng cổ đã tạo đà cho Minh Vương leo lên đỉnh cao của nghệ thuật ca diễn. Nên nhớ rằng, đại bang Kim Chung hồi trước có thế mạnh là có đào kép đẹp và những giọng ca mới lạ. Bởi vậy, về với Kim Chung là Minh Vương đã về đúng nơi cần đến để có điều kiện trau dồi, học hỏi nâng cao chất lượng giọng ca.
Khi Minh Vương còn đang mài mò tìm lối riêng cho giọng ca của mình, thì phía trước Minh Vương đã có hai đàn anh nổi tiếng vang dội thời đó là Minh Cảnh và Minh Phụng. Nhờ đó, mà cái tên Minh Vương thường được gọi kèm chung với hai đàn anh là « Tam Minh », tức « Minh Cảnh-Minh Phụng-Minh Vương ». Thế nhưng, đây cũng là một trở ngại lớn đối với Minh Vương vì hai ngôi sao Minh Cảnh và Minh Phụng quá sáng chói và Minh Vương khó có cơ hội sáng lên cho được.
Thời gian trôi qua, Minh Vương đã dần chứng minh được bản lĩnh khi giọng ca Minh Vương đã « đủ cân đủ lượng » đứng độc lập ở một góc trời riêng. Có một số người xếp Minh Vương và Minh Phụng vào trường phái ca của Minh Cảnh. Thế nhưng, nghe kỹ lại, đây là ba chất giọng và ba kiểu ca rất riêng biệt.
Trong thập niên 1960, Minh Cảnh được xem là một giọng ca « lạ », cách tân với lối ca lạng bẻ, kiểu cọ, khác biệt với các bậc tiền bối ca lối thiên về chân phương như Út Trà Ôn hay Hữu Phước. Giọng ca Minh Vương có giống với Minh Cảnh là nghe rất nhẹ, rất mướt. Còn lại, thì Minh Vương ca thiên về lối chân phương của Út Trà Ôn. Tức là ca không cầu kỳ lạng bẻ mà thánh thoát nhẹ nhàng, bình dị, giữ được nét mộc mạc của đờn ca tài tử. Minh Vương có làn hơi khỏe khoắn, trong, âm vực rộng lên thật cao, xuống thật thấp vẫn tròn vành rõ chữ, có thể ca nhiều tông khác nhau mà không bị lạc giọng, không bị tù hơi. Giọng Minh Vương thanh thoát, chân phương, bình dị, có chút mùi mẫn, trữ tình, đầy nam tính và không bi lụy.
Nói về nhịp nhàng, Minh Vương là một trong những nghệ sỹ bậc thầy về nhịp. Càng về sau, khi tài năng càng phát triển, Minh Vương ca không theo khuôn nữa, mà ca theo lối rải nhịp đều ở các câu như Út Trà Ôn. Minh Vương lại thường để nhiều chữ ở cuối câu rồi « ca lùa » rất hay. Cách ca này rất khó, bởi phải chắc nhịp lắm mới dám ca, nếu không sẽ tạo cảm giác vụng về ngay. Nghe Minh Vương ca, người nghe thật khó nhận biết đang ở nhịp nào, nhưng khi Minh Vương xuống nhịp cuối câu thì « y như để ».
Tuy nhiên, nét « đắt giá » nhất ở giọng ca Minh Vương, đó là ca rất trọng sự nhấn nhá theo phím đàn. Nghe Minh Vương ca, người nghe có cảm giác giọng ca và tiếng đàn hòa quyện vào nhau, để có khi nghe tiếng đờn nâng nhẹ lời ca, và để có khi nghe lời ca nhảy nhót tung tăng trên phím đàn. Cách nhấn chữ của Minh Vương theo phím đàn nghe rất rõ chữ đàn, và nghe rất « đã tai », giống như đang đứng xa xa vừa ngắm dòng suối vừa nghe tiếng nước suối chảy vậy. Phải có một tài năng ca thượng thừa mới có thể ca được như vậy.
Giọng ca Minh Vương đã ghi dấu ấn qua vô số bài vọng cổ thuộc đủ thể loại. Minh Vương ca vọng cổ theo lối tự sự xưa rất hay, và người mộ điệu hiện tại vẫn còn « mê mẫn » với rất nhiều bài kinh điển như: Lòng Dạ Đàn Bà, Lá Bàng Rơi, Gánh Nước Đêm Trăng, Đội gạo đường xa, Người đánh đàn trên Bắc Mỹ Thuận …
Những bài này thường dài đến 6 câu, viết theo lối kể chuyện tâm tình, nên rất kén giọng ca. Ca làm sao để không cho thấy buồn quá, không cho thấy dài dòng quá, để tránh tạo cảm giác nhàm chán cho người nghe. Với giọng ca Minh Vương, người mộ điệu nghe những bài trên, càng nghe thì càng thấy « đã ».
Còn đối với tân cổ giao duyên, Minh Vương đã thể hiện thành công vô số bài với nhiều nữ nghệ sỹ đủ các thế hệ. Giọng ca Minh Vương có nét tươi trẻ, nên ca tân cổ giao duyên là một lợi thế. Có thể kể một số bài nổi nhất như : Trương Chi Mỵ Nương, Người em Vĩ Dạ, Đám cưới trên đường quê, Chuyến tàu hoàng hôn, Màu tím hoa sim, Thân phận, Mimosa, Áo em chưa mặc một lần, Cô bán sầu riêng …
Thế nhưng, đặc biệt nhất là bài tân cổ giao duyên Bánh Bông Lan của soạn giả Loan Thảo. Đây là một bài ca theo kiểu đối đáp giữa một chàng trai đang theo đuổi một cô gái làm nghề bán bánh bông lan với lời văn rất dễ thương, nhưng rất khó ca vì hai người phải vừa ca vừa nói liên tục trong lòng bản. Bài hát này đã trở nên gắn liền với Minh Vương-Lê Thủy, tức nghe người khác ca người mộ điệu sẽ lập tức cảm thấy không được « đã ».
Xứng danh « Trạng nguyên vọng cổ »
Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày đoạt Khôi nguyên vọng cổ, giọng ca Minh Vương vẫn trẻ trung, mượt mà, điêu luyện, và vẫn còn ru lòng người mộ điệu cải lương, kể cả thế hệ trẻ. Lối ca giữ được cái hồn mộc mạc và tinh thần bài bản của đờn ca tài tử là rất đáng quý ở Minh Vương. Giọng ca Minh Vương tựa như một dòng suối nhỏ : trong trẻo, không ồn ào mà âm thanh phát ra rất rõ, đủ để tưới mát những tấm lòng, đủ để ru hồn bằng những thanh âm nhấn nhá du dương, đủ để khiến người nghe được thả hồn theo lời ca tiếng đờn cổ nhạc. Nửa thế kỷ đã trôi qua, đến hiện tại, có thể nói rằng, Minh Vương luôn xứng danh là « trạng nguyên vọng cổ ».
Tạp chí RFI
Cải Lương
"Người Tình Trên Chiến Trận" - Minh Vương ft. Mỹ Châu ft. Diệp Lang ft. Thanh Sang
Mạch điện tự động khởi động động cơ bằng phương pháp đổi nối Sao/ Tam giác theo nguyên tắc thời gian
Khởi động sao tam giác là một trong các biện pháp khởi động của động cơ có công suất trung bình. Chỉ áp dụng được với động cơ hoạt động với sơ đồ tam giác. Khi khởi động, động cơ được nối sao, lúc này điện áp trên mỗi cuộn dây chỉ là U pha (220 V với lưới điện hạ áp của Việt nam). Sau một khoảng thời gian thì chuyển sang đấu tam giác, lúc này điện áp trên các cuộn dây là U dây. Bằng cách này giúp cho dòng khởi động nhỏ xuống.
Đối với động cơ nhỏ tới 7.5KW thì khởi động trực tiếp (DOL: Direct On Line (method of starting an electric motor). Đối với động cơ từ 11KW tới 45KW thì khởi động sao tam giác (Y-D: Star-Delta).
Bạn cần phải 3 contactor: 1 contactor đóng ngắt chính, 1 cái để nối sao và 1 cái để nối tam giác. Một Timer để chỉnh thời gian khởi động
Mạch điện giữa 2 cái nối sao và tam giác phải khóa lẫn nhau. Những nhà chế tạo kỹ lưỡng còn có khóa cơ khí, để 2 contactor này không thể đóng đồng thời.
Hướng dẫn chi tiết nằm ở Trang 7 của tài liệu theo link ( dẫn tới Google Docs )dưới đây :
https://drive.google.com/file/d/0B3ULrBQyw2k7eldqaGlPTkM3R1U/edit?usp=sharing
Đối với động cơ nhỏ tới 7.5KW thì khởi động trực tiếp (DOL: Direct On Line (method of starting an electric motor). Đối với động cơ từ 11KW tới 45KW thì khởi động sao tam giác (Y-D: Star-Delta).
Bạn cần phải 3 contactor: 1 contactor đóng ngắt chính, 1 cái để nối sao và 1 cái để nối tam giác. Một Timer để chỉnh thời gian khởi động
Mạch điện giữa 2 cái nối sao và tam giác phải khóa lẫn nhau. Những nhà chế tạo kỹ lưỡng còn có khóa cơ khí, để 2 contactor này không thể đóng đồng thời.
Hướng dẫn chi tiết nằm ở Trang 7 của tài liệu theo link ( dẫn tới Google Docs )dưới đây :
https://drive.google.com/file/d/0B3ULrBQyw2k7eldqaGlPTkM3R1U/edit?usp=sharing
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)